Dạo:
Bập bùng ngọn lửa trong tim,
Láo liên con mắt đi tìm chốn nao.
爐 中 小 火
劈 山 錯 覓 舊 雲 蹤,
破 鏡 妄 求 昔 日 容,
戽 水 癡 心 尋 鯉 影,
回 家 火 未 熄 爐 中.
陳 文 良
Âm Hán
Việt:
Lô Trung
Tiểu Hỏa
Phách sơn thác mịch cựu vân tung,
Phá kính vọng cầu tích nhật dung,
Hố thủy si tâm tầm lý ảnh,
Hồi gia, hỏa vị tức lô trung.
Trần Văn Lương
Dịch
nghĩa:
Đốm
Lửa Nhỏ Trong Bếp Lò
Xẻ núi lầm lẫn đi tìm vết chân của đám mây cũ (đã bay
qua),
Đập vỡ kính sai lầm mong cầu (được lại) bóng dáng
ngày xưa, (1)
Lòng ngu si tát nước để tìm hình ảnh của con cá chép,
(2)
Quay về nhà (mới thấy) lửa chưa tắt trong bếp (3)
Ghi
chú:
(1) Khóc
Thị Bằng của Tự Đức:
...
Đập cổ
kính ra tìm lấy bóng"
...
(2) Bích Nham
Lục, tắc 7, Huệ Siêu Vấn Phật
Bài Tụng của Tuyết Đậu :
Giang quốc xuân phong xuy bất khởi,
Chá cô đề tại thâm hoa lý.
Tam cấp lãng cao ngư hóa long,
Si
nhân du hố dạ đường thủy.
Nghĩa :
Ở
Giang quốc, gió xuân thổi không lên,
Chim chá cô kêu hót trong rừng hoa.
Sóng cao ba bực con cá đã hóa rồng (bay mất),
Kẻ
ngu si vẫn còn tát nước tìm trong ao đêm.
(2) Ngũ Đăng
Hội Nguyên, quyển 9, Qui Sơn Linh Hựu Thiền Sư
Sư (Qui Sơn) một hôm đứng hầu thầy là Bách Trượng.
Bách Trượng hỏi:
- Ai đó ?
Sư đáp:
- Là con.
Bách Trượng bảo:
- Con vạch
trong bếp xem có lửa không.
Sư vạch bếp xong thưa :
- Không có
lửa.
Bách Trượng đứng dậy, vạch bếp thật sâu, tìm ra chút
lửa giơ lên và nói:
- Sao bảo
là không có lửa ?
Sư bỗng nhiên đại ngộ, lễ bái và trình kiến giải.
Phỏng
dịch thơ:
Lửa Bếp
Xẻ non
tìm dấu mây qua,
Đập gương mong gặp nét hoa năm nào,
Dại khờ
cố tát cạn ao,
Về khơi bếp, lửa may sao vẫn còn.
Trần Văn Lương
Cali, 03/2013
Lời
than của Phi Dã Thiền Sư :
Mây bay qua nào để lại dấu vết trong
núi.
Người đi rồi nào còn gì để lại trong
gương.
Cá hóa rồng rồi đâu còn để lại ảnh
trong ao.
Thế mà chúng sinh vẫn mê mờ xẻ núi tìm
mây,
đập gương tìm bóng, tát nước tìm cá.
Nào hay ngọn lửa trong bếp vẫn còn
luôn âm ỉ!
No comments:
Post a Comment