30 September 2023

Một Nhà Thơ Lớn, Thiên Tài Gốc Việt

Tăng Quốc Kiệt


“Có những người con làm rạng danh cha mẹ
Có những con dân làm rạng danh Tổ quốc”.

Tôi hỏi 8 người bạn thích đọc sách, có biết Ocean Vuong là ai không? Tất cả đều trả lời là không, vậy là tôi nằm trong khối đa số hơi hổ thẹn, vì không biết đến một nhân tài gốc Việt, sống ở Mỹ, một thi sĩ mà người bản xứ không tiếc lời ca tụng, cho giải thưởng về thơ (genius prize) trị giá 625.000 đô la.

Thơ của em, Night sky with exit wound (Trời đêm với những vết thương xuyên thấu) và quyển tiểu thuyết Trên trái đất chúng ta một thoáng huy hoàng (On the earth, we’re gorgeous) được dịch ra 30 thứ tiếng kể cả tiếng Việt ở VN, quyển tiểu thuyết được báo New York Times cho là “biến cố văn chương” của năm 2019, và nằm trong danh sách best sellers trong 6 tuần liên tiếp. Đó là lý do vì sao tôi viết bài này.

XUẤT THÂN

Từ đây, tôi gọi tên em là Vương Hải, chứ không gọi Ocean Vuong như người Mỹ.

Em sinh năm 1988, bà ngoại tên Lan, mẹ tên Hồng, gốc người Gò Công, gia đình 6 người vượt biên qua trại tị nạn Philippines, ở đó 1 năm, định cư ở Mỹ năm 1990 lúc Hải được 2 tuổi. Gia đình 6 người cư ngụ trong một căn hộ chung cư có một phòng ngủ, ở vùng da đen Harford, Connecticut. Nơi đây đã để lại dấu ấn trong đời và trong thơ văn của Hải. Cho tới khi tiếp xúc với bên ngoài, em cứ nghĩ nước Mỹ là của người da đen.

Tên khai sinh do cha đặt là Vương Quốc Vinh, sau khi người cha đi tù vì tội bạo hành đánh vợ, ly dị mẹ em, bỏ nhà ra đi, người mẹ quyết định đổi tên em là Hải để cắt đứt với quá khứ.

Trong một lần phỏng vấn, được hỏi nguồn thơ của em từ đâu ra, em trả lời là mặc dù mẹ em mù chữ, nhưng khi đặt tên em, bà nghĩ đến Thái Bình Dương, là biển nối liền Mỹ với quê hương VN là có ý thơ rồi (phải chăng bà đã nghĩ đến câu hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình, dạt dào”). Hơn nữa, em được giáo dục bởi 3 người đàn bà: bà ngoại, mẹ và dì Mai, đã đọc thơ, kể chuyện, hát ca dao cho em nghe, do đó thơ, từ thuở nhỏ đã thấm vào hồn em.

Bà ngoại Lan, là người mù chữ, cũng như mẹ em và dì Mai, có lẽ trong gia đình có gen mang chứng khó đọc chữ (dyslexia) vì người em của Hải đã bị chứng này.

Thời trẻ bà ngoại bỏ nhà ra đi, làm me Mỹ, gặp ông ngoại là người Mỹ da trắng, tên Paul, gốc nông dân ở Michigan, cũng bỏ nhà, đăng lính hải quân, qua chiến đấu ở VN.

Bà ngoại sinh 2 cô con gái, giống Mỹ nhiều hơn giống Việt. Có lúc vì khó khăn, bà phải bỏ con vào cô nhi viện khi chồng về Mỹ năm 1971 và không trở lại.

Chính bà ngoại là người đã kể cho Hải nghe chuyện chiến tranh VN, do đó, dù đến Mỹ năm 2 tuổi, chiến tranh VN bàng bạc trong thơ văn của Hải. Có thể nói, Hải rời VN nhưng VN không rời Hải.

Mẹ Hải, bà Hồng, sống bằng nghề làm móng tay.

Hải là người đồng tính, năm 17 tuổi, lần đầu tiên em thổ lộ với mẹ và được bà chấp nhận.

Người tình đầu của em là Trevor, gốc da trắng, con của một nông gia trồng thuốc lá, là đề tài mà em đã viết trong thơ và trong quyển tiểu thuyết hết sức sống động. Sau đó Trevor chết vì chích ma túy quá liều.

Hình ảnh người cha vắng mặt trong đời em, được tả một cách nhạt nhòa bàng bạc trong thơ văn của Hải.

QUÁ TRÌNH HỌC VẤN

Hải đi học mẫu giáo hồi 5 tuổi, nhưng mãi tới năm 11 tuổi em mới đọc và hiểu được tiếng Anh một cách thông thạo.

Sau đó em thường đi thư viện và miệt mài trong sách vở. Em kể khi nghe băng bài diễn văn của mục sư Martin Luther King Jr “I have the dream” thì em bắt đầu có mộng lớn của riêng mình.

Chú bé cô đơn, bị hiếp đáp trên xe bus, trên đường đi học, tìm an ủi trong sách vở, bắt đầu làm thơ. Thầy giáo nghĩ là em đạo văn, ông không thể tưởng tượng một đứa học trò nghèo, xuất thân từ gia đình mù chữ, phát âm chữ THE cũng ngọng thì làm sao có thể làm thơ hay như vậy, nên phạt em về tội ăn cắp, ăn cắp thơ! Nhưng ông giáo đã lầm, một thiên tài vừa xuất hiện mà ông không biết!

Em kể: tôi viết rất chậm, xem từ ngữ như một vật thể, tôi luôn cố tìm từ ngữ trong từ ngữ:

Tôi bước vào đời mình
Cách từ ngữ
Bước vào tôi

Nói về chuyện đọc sách, em viết:

Ôi thằng con ngốc
Con có thể lạc lối trong mọi cuốn sách
Nhưng không bao giờ quên được chính mình.

Vào đại học, lúc đầu em chọn marketing vì hi vọng sẽ kiếm được nhiều tiền để giúp gia đình, nhưng sau 8 tuần thì em bỏ học vì biết mình đã chọn sai, nên đổi qua Brooklyn College của Đại học New York để theo học văn chương Anh thế kỷ 19. Em lấy bằng BA, sau đó tốt nghiệp MFA về thơ của Đại học New York, hiện nay làm giảng sư MFA ở Đại học Massachusetts, TP Amherst.

Quyết định chuyển ngành học từ marketing qua văn chương là điều may cho chính bản thân Hải, cho nước Việt và cho thế giới thi ca: một nhân tài có dịp để thăng hoa.

CÁC GIẢI THƯỞNG:

2010 (22 tuổi): Academy of American Poets University and College Poetry Prize.

2012 : Stanley Kunitz Prize for younger poets.

2013 : The Elizabeth George Foudation Fellowship.

2013 : Chad Walsh Prize, Beloit Poetry Journal.

2014 : Pushcart Prize.

2014 : Ruth Lily/Sargent Rosenberg Fellowship.

2015 : The Narrative Prize.

2016 : Whiting Award for Poetry.

2017 : Forward Prize for Poetry Felix Dennis Prize for Best First Collection

2017 : T. S Eliot Prize

2018 : Kundman Fellowship

2019 : Mac Arthur Fellow (625.000 US $) với lời bình: “kết hợp truyền thống dân gian với những thử nghiệm ngôn ngữ”.

2020 : Dylan Thomas Prize - Shortlist for On earth We’re Briefly Gorgeous.

2020 : NAAAP Pride Award

New Yorker bình luận: “Ocean Vuong là người sửa lại ngôn ngữ tiếng Anh”.

Tạp chí Foreign Policy bình chọn Ocean Vuong là 1 trong 100 nhà tư tưởng hàng đầu của nhân loại, năm 2016.

SỰ NGHIỆP:

Viết tiểu luận cho các báo: Poetry, The Nation, TriQuarterly, Guernica, The Rumpus, Boston Review, Narrative Magazine, The New Republic, The New Yorker, and The New York Times.

* Đã xuất bản: Burning (2011), No (2013), Night sky with exit wound (2016), On earth we’re briefly gorgeous (2019).

LƯỢC QUA TẬP THƠ “TRỜI ĐÊM VỚI NHỮNG VẾT THƯƠNG XUYÊN THẤU”

HÌNH THỨC: Khổ nhỏ, dày 84 trang, xb năm 2016, nxb Copper Canyon Press, đề tặng mẹ [và ba tôi] sách đã được dịch sang tiếng Việt ở VN.

NỘI DUNG: gồm 35 bài thơ, tựa các bài thơ đôi khi khó hiểu cho người không rành thần thoại Hy Lạp, vài ví dụ: Tellemachus (tên người con của Ulysse & Penelope trong tập thơ Odysse của Homer), Trojan, Eurydice, Odysseus redux…

Có nhiều ẩn dụ khó hiểu ý tác giả, nhưng khi hiểu được thì ý nghĩa thâm trầm sâu sắc.

Vần điệu theo kiểu thơ tự do, rất du dương, rất thơ.

Ví dụ:

It’s hind legs croshed into the shine of white christmas
In the square below, a nun on fire, runs silently toward her god
Beneath sound of his own.

(Hai chân sau của nó được tạo thành ánh sáng của cây giáng sinh trắng

Ở quảng trường bên dưới, một nữ tu đang bốc cháy, đang lặng lẽ chạy về phía vị thần của mình

Bên dưới âm thanh của riêng mình).

Trong tập thơ, Hải viết bằng tiếng Việt nhiều lần, có cả dấu:

tặng mẹ [và ba tôi]

Ba

Bà ngoại, Hạ Long bay, Củ Chi, Vietnam, Cà pháo, Gia đình

Lan ơi, em khoẻ không. Giờ em đang ở đâu…

Theo Tupelo Quartely: Thơ buồn, đẹp. Sexy một cách dữ tợn, đụng chạm đến chính trị. Biểu lộ nỗi ám ảnh của người đồng tính luyến ái. Người Pháp nói: “traduire c’est trahir” (dịch là phản), do đó độc giả nên tìm đọc nguyên bản tiếng Anh mới cảm nhận được cái hay, cái du dương của ngôn ngữ mà tác giả đã dày công sáng tác.

Tôi xin trích vài bài dịch thơ, nói về các người thân của Vương Hải.

VỀ MẸ:

* Trong bài thơ Rồi có một ngày, ta sẽ yêu Ocean Vương

Hải, bạn đang nghĩ gì?
Phần đẹp nhất của cơ thể là bất cứ nơi đâu.

Phủ hình bóng mẹ (trang 82)

* Trong bài thơ Đầu ra trước (head first)

Nhưng chỉ có người mẹ, có thể bước đi, với sức nặng của nhịp đập của quả tim thứ hai (trang 20)
Tôi nghĩ tôi thương mẹ nhiều lắm (trang 70)
Con thương mẹ, mẹ ơi (trang 7)

Không có gì bằng cơm với cá,
Không có gì bằng má với con (thành ngữ VN, trang 20)

VỀ CHA:

Đừng lo, cha mày chỉ là cha mày.
Cho đến khi một người trong nhà quên mất.
Giống như cách mà xương sống,
Không nhớ hai cánh tay.

VỀ BÀ NGOẠI :

* Trong tập thơ Burning

Ngoại tôi hôn.
Như thể bom đang nổ sau nhà,
Nơi mà bạc hà và hoa lài toả hương,
Qua cửa sổ bếp,

……….

Khi ngoại tôi hôn, sẽ không
Có âu yếm cầu kỳ, không âm nhạc Tây phương
Của đôi môi mím chặt, ngoại hôn như để hút lấy
Bạn vào trong bà.

Vương Hải như đóa sen, mọc từ bùn, vươn lên và tỏa hương. Em đi từ no one (không là ai) trở nên anyone (bất cứ ai) rồi trở thành someone (một người hơn người).

Tôi theo dõi nhiều buổi phỏng vấn, các buổi đọc thơ của Vương Hải trên các chương trình TV Mỹ, Canada, Pháp, Đức. Điều đập vào mắt tôi là cách em chào cử tọa, em cúi mình thật thấp. Người Nhật bảo: những hạt lúa chín là những hạt lúa cúi đầu - thái độ thật khiêm tốn, ăn mặc giản dị, giọng nói nhẹ nhàng của phái nữ, trầm bổng đầy chất thơ.

Thật khó tưởng tượng một chú bé, thuở nhỏ nói thứ tiếng Anh của người da đen ít học, một lần ở tiệm Sears, người bán hàng hỏi có phải em là con nuôi của mẹ em (vì mẹ là con lai Mỹ rất trắng), em trả lời không, tôi từ asshole của mẹ tôi ra. Ngày nay, em sử dụng thứ tiếng Anh hết sức trau chuốt của giới trí thức khoa bảng.

Em kể lại, thuở nhỏ, bài học đầu tiên mà bà ngoại và mẹ em dạy để sinh tồn ở nước Mỹ là coi chừng, đừng để ai chú ý tới mình. Vì mình là người Việt da vàng đã khác họ rồi, mục đích là mình phải làm sao để trở nên vô hình, mẹ dạy con phải tự biến mất. Em hiểu là người lớn muốn cho em được yên thân, được an toàn (ngày nay với phong trào bài Á, những lời khuyên đó có còn đúng không?)

Có sự khác biệt giữa thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai. Thế hệ thứ hai muốn người ta biết đến mình, để vươn lên: có chúng tôi đây, chúng tôi tự hào về mình. Thế hệ thứ nhất dạy con mình biến đi, tự vệ bằng cách tự xóa mình.

Theo Vương Hải, để được biết đến em phải trở thành nghệ sĩ.

Tôi mong em sẽ đi xa hơn nữa (vì em còn quá trẻ, 33 tuổi) trong sự nghiệp sáng tác của mình để đạt được Nobel văn học.

Tiếc cho em, khi đã đạt được vinh quang, thoát khỏi cảnh nghèo, thì những người thân lần lượt ra đi: bà ngoại, người đã dạy văn chương bình dân VN cho em, kể cho em nghe về cuộc chiến tàn khốc, đã chết vì ung thư xương giai đoạn cuối, mà em đã tả một cách sống động trong quyển tiểu thuyết.

Người mẹ mà Hải hết lòng thương yêu (Con thương mẹ, mẹ ơi) cũng đã ra đi vì ung thư vú di căn. Người mẹ, làm việc trong tiệm nail, suốt ngày phải cúi đầu giũa móng tay, móng chân cho khách, luôn miệng nói sorry, sợ làm đau khách sẽ không được tip.

Một bữa, sau khi dự buổi ra mắt sách của Hải, nghe con đọc thơ tiếng Anh mà bà chẳng hiểu gì, chỉ quan sát cử tọa, bà mẹ bật khóc nức nở vì sung sướng. Bà nói với Hải: “Má không bao giờ nghĩ là mình sẽ sống để nhìn thấy ngày những người da trắng, đứng tuổi, vỗ tay tán thưởng con của má”.

Hải đã trả hiếu cho mẹ rồi: bằng sự thành công của em, khi em được đánh giá là thiên tài của nước Mỹ. Có chăng một chốn gọi là chín suối? Nếu có, chắc mẹ em đang nở nụ cười mãn nguyện: nhiệm vụ của bà đã hoàn thành.

Cám ơn Vương Hải, đã cho tôi niềm hãnh diện của người Việt Nam.

“Summer in the mind,
God opens his other eye:
Two moons in the lake”.

Vương Hải

 T.Q.K.
(1-5-2021)

28 September 2023

Mưa Thu

Good morning from TTR


Mưa Thu Vườn Nhà
(A.C.La)

17 September 2023

Thôi Đành, truyện ngắn

O. Henry
Phượng Nghi phỏng dịch

Trong xưởng dạy nghề giày của nhà tù, Jimmy Valentine đang lui cui đóng giày thì một sĩ quan khám đường bước vào dẫn chàng lên văn phòng. Ở đó Jimmy được người ta đưa cho một tờ giấy quan trọng, cho biết chàng được trả tự do.

Jimmy hờ hững cầm lấy tờ giấy, không tỏ ra thích thú hay quan tâm. Chàng đã bị tống vào khám để nằm 4 năm. Nhưng chàng mong chỉ nằm ấp 3 tháng, vậy mà đã 10 tháng rồi. Jimmy Valentine có nhiều bạn bè ở bên ngoài nhà tù. Một người có rất nhiều bạn bè không đợi phải ở tù lâu.

Valentine nè, viên sĩ quan quản đốc khám đường nói, sáng mai anh sẽ được ra ngoài. Ðây là cơ hội của anh đó. Hãy ăn ở sao cho đáng là đàn ông. Thâm tâm anh không phải là một người xấu. Ngừng chuyện phá két đi và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

–   Tôi ấy à? Jimmy ngạc nhiên nói. Cả đời, tôi chưa bao giờ phá két sắt nào hết.

–   Vậy hả, quản đốc cười lớn. Không bao giờ sao. Xem nào. Làm thế nào mà bạn lại bị đưa vào tù vì mở cái két sắt đó ở Springfield? Có phải vì bạn không muốn khai sự thực là đang ở đâu lúc đó? Có lẽ vì bạn đang cặp kè với cô nàng nào đấy, và bạn không muốn nói tên của cổ ra? Hay là do thẩm phán không thích bạn? Mấy người thì luôn có lý do như thế. Bạn chả bao giờ vào tù vì đã phá két cả.

– Tôi sao? Jimmy nói, gương mặt chàng vẫn lộ rõ vẻ ngạc nhiên. Cả đời, tôi có bao giờ đến Springfield đâu.

Ðưa hắn ta đi, quản đốc nói. Lấy cho hắn bộ quần áo cần mặc để ra ngoài. Dẫn hắn đến đây lần nữa vào lúc 7 giờ sáng. Nhớ suy nghĩ về những gì tôi đã nói đấy, Valentine à.

Bảy giờ mười lăm phút sáng hôm sau, Jimmy lại đứng trong văn phòng. Chàng mặc bộ quần áo mới chỗ rộng chỗ chật, còn đôi giày mới thì cọ chân đau nhói. Ðây là thường phục được cấp cho tù nhân khi rời khám.

Tiếp theo, họ cho chàng tiền để mua vé xe lửa đến thành phố gần với khám đường. Họ đưa thêm cho chàng 5 đô. 5 đô chắc là để giúp chàng trở thành một người tốt hơn.

Sau đó quản đốc đưa tay ra bắt. Thế là Ông James Valentine bước ra thanh thiên bạch nhật, chấm dứt kiếp tù nhân Valentine số 9762.

Chàng chẳng màng lắng nghe tiếng chim hót hay ngắm hàng cây xanh hoặc ngửi mùi hoa cỏ, mà đến thẳng một nhà hàng. Ở đó, chàng đã nhấm nháp những niềm vui ngọt ngào đầu tiên được tự do. Chàng ăn một bữa ngon lành. Sau đó chàng đến ga xe lửa, ném ít tiền cho một người mù ngồi đó ăn xin, rồi bước lên tàu.

Ba giờ sau chàng xuống ga ở một thị trấn nhỏ. Tại đây chàng đến thẳng nhà hàng của Mike Dolan.

Mike Dolan ở đó chỉ có một mình. Sau khi bắt tay, ông nói:

– Bố xin lỗi vì không thể làm sớm hơn, Jimmy con. Nhưng ở Springfield cũng có két sắt đó. Nó không dễ đâu. Cảm thấy ổn cả chứ?

– Tốt thôi, Jimmy nói.  Phòng của con vẫn còn đó chứ?

 
**

Chàng đi lên và mở cửa một căn phòng ở phía sau ngôi nhà. Mọi thứ vẫn y nguyên như khi chàng bị tóm. Chính tại đây, họ đã tìm được Jimmy và bắt chàng xộ khám. Trên sàn vẫn còn một mảnh vải nhỏ xé toạc từ áo khoác của cảnh sát khi Jimmy vật lộn để thoát thân.

Có một cái giường kê sát vách tường. Jimmy kéo giường về phía giữa phòng. Bức tường phía sau giường trông giống bất kỳ bức tường nào, nhưng có một cánh cửa nhỏ và bây giờ Jimmy mở ra. Từ trong đó, chàng lôi ra một chiếc túi bám đầy bụi.

Chàng mở túi và trìu mến nhìn những dụng cụ phá két sắt. Không có nơi nào tìm được dụng cụ tốt hơn. Nó đủ bộ, cần gì cũng có. Mà lại làm bằng vật liệu đặc biệt, đúng kích thước và hình dạng cần thiết. Jimmy đã tự mình vẽ kiểu và chàng rất tự hào về bộ đồ nghề này.

Chàng đã chi hơn chín trăm đô để có những dụng cụ chế tại một nơi chuyên sản xuất đồ nghề cho dân làm công việc phá két sắt.

Nửa giờ sau, Jimmy đi xuống cầu thang và qua nhà hàng. Bây giờ chàng đã mặc một bộ quần áo chải chuốt, vừa vặn. Chàng mang theo chiếc túi đã được phủi bụi và lau sạch.

– Con có kế hoạch gì không nào? Mike Dolan nói.

– Con hả? Jimmy hỏi như thể ngạc nhiên. Con không hiểu. Con làm việc cho New York Famous Bread and Cake Makers Company, Công ty sản xuất bánh mì và bánh ngọt nổi tiếng New York mà. Và con bán bánh mì, bánh ngọt ngon nhất nước.

Mike thích thú với những lời này đến nỗi bắt Jimmy phải uống một ly với ổng. Nhưng Jimmy uống sữa. Chàng không bao giờ uống bất cứ thứ gì mạnh hơn.

Một tuần sau khi tù nhân Valentine 9762 rời khỏi khám đường, một chiếc két sắt đã bị phá ở Richmond, Indiana. Không ai biết người nào đã làm chuyện đó. Tám trăm đô la bị cuỗm mất.

Hai tuần sau đó, một két sắt ở Logansport cũng bị mở toang. Họ nói cái này thuộc loại két sắt mới, rất kiên cố không ai phá được. Vậy mà có người đã làm, chớp mất một ngàn năm trăm đô.

Rồi một két sắt ở Thành phố Jefferson cũng bị mở. Năm nghìn đô la bay biến. Ðây là một mất mát lớn. Viên cảnh sát Ben Price từng điều tra những vụ quan trọng như thế, nên bây giờ bắt tay vào việc.

**

Ông ta đến Richmond, Indiana, và tới Logansport, để xem cách phá két sắt đã được thực hiện ở những nơi đó ra sao. Có người nghe ông nói: “Tôi có thể thấy là Jim Valentine đã xuất hiện ở đây. Hắn lại đang làm ăn. Hãy coi cách hắn mở cái két này. Mọi thứ đều dễ ợt, mọi thứ đều sạch bong. Hắn là người duy nhất có dụng cụ để ra tay. Và hắn là người duy nhất biết sử dụng những dụng cụ như thế này. Ðược rồi, tôi muốn cum được ông Valentine. Lần tới khi hắn xộ khám, hắn sẽ ở đó cho đến mãn đời.”

Ben Price biết cách thức Jimmy làm việc. Jimmy sẽ đi từ thành phố này đến thành phố khác rất xa nhau. Hắn luôn làm ăn một mình. Hắn luôn nhanh chóng chuồn đi khi xong việc. Hắn rất thích ở bên những người lương thiện. Vì tất cả những lý do đó, không dễ gì tóm được hắn.

Những người có két sắt đầy tiền đều vui mừng khi biết tin Ben Price đang làm việc để tìm cách bắt ông Valentine.

Một buổi chiều, Jimmy Valentine và chiếc túi của chàng xuất hiện ở một thị trấn nhỏ tên là Elmore. Jimmy, trông trẻ như một nam sinh viên đại học, đi bộ xuống phố về phía khách sạn.

Một cô gái trẻ băng qua con phố, đi ngang gần chàng ở góc đường, và bước vào một cánh cửa. Trên cửa là tấm biển “Ngân hàng Elmore”. Jimmy Valentine nhìn vào mắt cô, ngay lập tức quên mất cả bản thân. Chàng đã trở thành một người đàn ông khác. Thiếu nữ nhìn đi chỗ khác, khuôn mặt cô bỗng sáng lên rạng rỡ. Ở Elmore hiếm khi xuất hiện những thanh niên trẻ trung như Jimmy.

Trông thấy một cậu bé gần cửa ngân hàng, Jimmy bắt đầu hỏi nó những câu hỏi về thị trấn. Một lúc sau cô gái trẻ bước ra và tiếp tục đường đi. Cô làm như không nhìn thấy Jimmy khi đi ngang qua chàng.

Có phải tiểu thư đó tên là Polly Simpson không?” Jimmy hỏi cậu bé.

Không, cậu bé nói. Cổ là Annabel Adams. Cha cổ là chủ ngân hàng này đấy.

Jimmy đi tới khách sạn, ghi tên mình là Ralph D. Spencer. Chàng thuê được một phòng ở đó. Chàng nói với nhân viên khách sạn rằng chàng đến Elmore để làm thương mại. Công việc kinh doanh giày ở đây như thế nào? Ðã có một cửa hàng giày tốt chưa?

Người nhân viên cho rằng trang phục và cách cư xử của Jimmy trông lịch lãm.

Anh rất vui khi nói chuyện với chàng:

– Ðúng, Elmore cần một cửa hàng bán giày tốt. Ở đây không có cửa hàng chỉ chuyên bán giày. Giày phải mua ở các cửa hàng lớn bán đủ thứ. Mọi hoạt động kinh doanh ở Elmore đều tốt.

Anh hy vọng ông Spencer sẽ quyết định ở lại Elmore. Ðây là một thị trấn sống thoải mái, còn dân cư thì thân thiện.

Ông Spencer nói rằng ông sẽ ở lại thị trấn vài ngày và tìm hiểu một số điều về thành phố. Không, ông nói, ông sẽ tự mình xách cái túi lên phòng. Ông không muốn một cậu bồi phòng phải mang. Túi rất nặng.

Ông Ralph Spencer lưu lại ở Elmore, bắt đầu mở một tiệm giày. Công việc kinh doanh tốt.

Vào cuối năm đó, mọi người ở Elmore đều thích ông Ralph Spencer. Cửa hàng giày của chàng làm ăn rất phát đạt. Còn hai tuần nữa thì chàng và Annabel sẽ kết hôn. Ông Adams, chủ ngân hàng ở một thị trấn nhỏ, thích Spencer, còn Annabel thì rất tự hào về chàng. Chàng dường như đã là thành viên của gia đình Adams.

Một ngày nọ, Jimmy ngồi trong phòng để viết bức thư này gửi cho một trong những người bạn cũ của chàng:

Bạn xưa thân ái:

Tau muốn mi gặp tau tại địa điểm ở Sullivan tuần tới, vào tối ngày 10. Tau muốn tặng mi bộ dụng cụ của tau. Tau biết mi sẽ rất vui khi có nó. Mi không thể mua nó với giá một nghìn đô đâu. Tau đã dứt bỏ công việc kinh doanh cũ  cả năm rồi. Giờ thì tau có một cửa hàng xinh xắn, một cuộc sống tốt đẹp và hai tuần nữa kể từ hôm nay, tau sẽ kết hôn với cô gái tuyệt vời nhất trần gian. Cuộc đời chỉ có một – tau sẽ không bao giờ đụng đến tiền của ai khác. Sau khi kết hôn, tau sẽ đi xa biệt về phía tây, ở đó sẽ không bao giờ gặp bất kỳ ai biết tau trong cuộc sống cũ. Tau nói với mi rồi, nàng là một cô gái tuyệt vời. Nàng tin tưởng nơi tau.

Bạn xưa của mi, Jimmy

Vào đêm Thứ Hai sau khi Jimmy gửi bức thư này đi, viên cảnh sát Ben Price lặng lẽ đến Elmore. Ông thong thả và lặng lẽ di chuyển về thị trấn này theo cách thức riêng, và đã tìm được tất cả những gì ông muốn biết. Ðứng bên trong một cửa hàng, ông nhìn Jimmy đi ngang qua.

Sáng hôm sau, Jimmy có mặt ở nhà gia đình Adams. Chàng sẽ đến một thành phố lân cận vào ngày hôm đó để sắm quần áo mới cho đám cưới và một món quà cho Annabel. Ðây sẽ là chuyến đi đầu tiên của chàng ra khỏi Elmore. Ðã hơn một năm nay chàng chưa thực hiện vụ phá két sắt nào.

Gần như cả gia đình Adams đã cùng nhau đến ngân hàng vào buổi sáng hôm đó. Có ông Adams, Annabel, Jimmy và em gái đã kết hôn của Annabel cùng với hai cô con gái nhỏ năm và chín tuổi. Họ đi ngang qua khách sạn của Jimmy, và chàng chạy lên phòng lấy cái túi xách của mình mang theo. Sau đó, mọi người đến ngân hàng.

Tất cả đều vào bên trong. Jimmy cũng vậy, vì bây giờ chàng đã là một người trong gia đình. Mọi người trong ngân hàng đều vui mừng khi thấy chàng thanh niên đẹp trai, tử tế sắp cưới Annabel. Jimmy đặt cái túi xuống.

Annabel cười, tinh nghịch đội chiếc mũ của Jimmy lên đầu nàng và nhặt chiếc túi lên.

– Em trông thế nào? nàng hỏi. Ralph, cái túi này nặng quá hen! Có cảm giác như chứa đầy vàng.

Jimmy nói:

– Trong cửa hàng của anh có đầy những thứ anh không cần. Anh chuyển chúng đến thành phố nơi xuất xứ. Làm vậy là để tiết kiệm chi phí gửi đi. Anh sắp trở thành một người đàn ông có gia đình nên phải học cách tiết kiệm tiền chứ.

**

Ngân hàng Elmore đã có một két sắt mới. Ông Adams rất tự hào về nó nên muốn mọi người đến xem. Nó rộng như một căn phòng nhỏ, và có một cánh cửa rất đặc biệt. Cửa được điều khiển bằng đồng hồ. Sử dụng đồng hồ, nhân viên ngân hàng sắp đặt thời gian cho cửa mở. Còn những lúc khác, không ai, thậm chí cả chính chủ ngân hàng, có thể mở được. Ông giải thích điều đó với Spencer. Chàng có vẻ thích thú nhưng làm bộ dường như không hiểu cho lắm. Hai đứa trẻ, May và Agatha, mê mẩn khi nhìn thấy cánh cửa nặng nề sáng loáng với tất cả các bộ phận đặc biệt. Trong khi họ đang bận rộn như thế thì ông cảnh sát Ben Price bước vào ngân hàng và quan sát chung quanh. Ông nói với một thanh niên làm việc ở đó rằng ông không đến có việc mà chỉ đợi một người.

Bỗng có tiếng khóc của những người phụ nữ. Họ đã không coi nhìn đám trẻ. May, cô bé chín tuổi, đã nghịch ngợm đóng cửa két sắt thật chắc, mà Agatha thì ở bên trong.

Ông già chủ ngân hàng cố gắng mở cửa. Ông trì kéo nó một lúc.

Cửa không thể mở được, ông khóc lên. Còn đồng hồ thì vẫn chưa khởi động.

Mẹ của Agatha lại khóc rống.

– Im lặng nào! Ông Adams nói, bàn tay run rẩy đưa lên. Tất cả hãy im lặng trong giây lát. Agatha! ông gọi to hết mức. Nghe ông ngoại nè!

Họ có thể nghe được, nhưng không rõ, âm thanh giọng nói của đứa trẻ. Trong bóng tối bên trong két sắt, con bé kinh hoảng vì sợ.

– Con tôi ơi! mẹ bé khóc rống. Nó sẽ chết vì sợ! Mở cửa đi! Phá nó ra! Mấy người không thể làm gì được sao?

Không ai ở gần thành phố này có thể mở được cánh cửa đó, ông Adams nói với giọng run run.   - Chúa tôi! Anh Spencer à, chúng ta phải làm gì đây? Con bé này – nó không thể ở lâu trong đó. Không có đủ không khí. Và nó sẽ chết vì sợ.

Mẹ của Agatha, giờ cũng rất dữ tợn, dùng tay đập cửa. Annabel quay sang Jimmy, đôi mắt to đầy đau khổ nhưng cũng có chút hy vọng. Người phụ nữ cứ nghĩ rằng người đàn ông cô ấy yêu, bằng cách nào đó có thể làm được điều gì chăng.

– Anh không làm gì được à, Ralph? Hãy thử xem nào, được không?

Chàng nhìn cô với một nụ cười dịu dàng kỳ lạ trên môi và trong mắt chàng.

– Annabel này, chàng nói, đưa cho anh bông hoa em đang đeo.

Nàng như không thể tin đã thực sự nghe thấy câu chàng nói, nhưng đặt bông hoa vào tay anh. Jimmy cầm lấy và đặt nó ở chỗ không thể rơi mất được. Sau đó chàng cởi áo khoác của mình ra. Với hành động đó, Ralph Spencer đã không còn nữa trên đời, và thế vào chỗ đó là Jimmy Valentine.

Tất cả mọi người, hãy đứng xa khỏi cửa, chàng ra lệnh.

Chàng đặt chiếc túi của mình lên bàn, và mở banh ra. Kể từ lúc đó, chàng dường như không biết có ai khác ở gần. Nhanh chóng chàng đặt các dụng cụ kỳ lạ sáng bóng lên bàn. Những người kia nhìn như thể chết trân không rời đi được.

Trong một phút, Jimmy đã bắt đầu công việc mở cửa sắt. Trong mười phút – nhanh hơn từng làm trước đây – chàng đã mở được cửa.

Agatha được đưa tới trong vòng tay của mẹ bé.

Jimmy Valentine mặc áo khoác vào, lượm bông hoa và đi về phía cửa trước. Trong lúc đi, chàng tưởng chừng nghe thấy một tiếng gọi “Ralph!” nhưng chàng đã không dừng lại.

Ở cửa có một người đàn ông to lớn đứng cản đường chàng.

– Hello, ông cảnh sát Ben! chàng nói, vẫn với nụ cười kỳ bí. Rốt cuộc thì ông cũng đã có mặt ở đây rồi phải không? Chúng ta đi nào. Ngay bây giờ thôi, tôi bất cần nữa.

Thế nhưng Ben Price đã hành động khá kỳ lạ. Ông ta nói:

– Tôi đoán là ông đã lầm chi đó, ông Spencer à. Tôi với ông đâu có quen biết nhau, phải không nào?

Và Ben Price quay lưng bước chầm chậm xuống phố.

Phượng Nghi phỏng dịch

Thiền Sư và Cô Lái Đò


Cô lái đò đưa khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người. Sau hết đến nhà sư. Cô lái đò đòi tiền gấp đôi. Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao?
Cô lái mỉm cười:

- Vì Thầy nhìn em…

Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ. Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba. Nhà sư hỏi vì sao?

Cô lái cười bảo:
- Lần nầy Thầy nhìn em dưới nước.

Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ. Lần khác nhà sư lại qua sông.
Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.

Đò cập bến cô lái đò thu tiền gấp năm lần.
Nhà sư hỏi vì sao?

Cô lái đáp:

- Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em.
Nhà sư trả tiền và lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông.

Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò…Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần nầy phải trả bao nhiêu?

Cô lái đáp:

- Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền.

Thiền sư hỏi:

- Vì sao vậy?

Cô lái cười đáp:

- Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới em nữa…Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi...

(Nguyễn Đình Thường Sưu Tầm)

06 September 2023

Ai sẽ là người nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao?

Một bài tham luận chỉ PHẠM DUY có đủ khả năng và thẩm quyến viết về thời gian đầu tiên của nền Tân Nhạc Tiền Chiến và cũng chỉ PHẠM DUY mới có đủ hiều biết và thông cảm thấu đáo về cuộc đời cũng như nhạc của Văn Cao và đặc biệt hơn nữa có lẽ đây là bài viết với văn phong khúc triết rõ ràng và nhã nhặn ít thấy của tác giả... 

**
PHẠM DUY 

Thuở còn nhỏ, tôi rất yêu một bài thơ Pháp, thường được người đời gọi là Sonnet d’Arvers. Tôi chỉ còn nhớ hai câu tiếng Pháp như sau : 
                                                    Mon coeur a son secret ma vie a ses mystères
                                                    Toujours à ses côtés et pourtant solitaire… 

Nhà văn Khái Hưng đã dịch bài thơ đó một cách tuyệt vời : 
                                                    Lòng ta chôn một khối tình 
                                                    Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
                                                    Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
                                                    Mà người gieo thảm như hầu không hay 
                                                    Hỡi ơi người đó ta đây !
                                                    Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
                                                    Dẫu ta đi trọn đường trần 
                                                    Chuyện riêng không dễ một lần hé môi  
                                                    Người dù ngọc thốt hoa cười 
                                                    Nhìn ta như thể nhìn người không quen
                                                    Đường đời lặng lẽ bước tiên 
                                                    Ngờ đâu chân đạp lên trên mối tình 
                                                    Một niềm tiết liệt đoan trinh 
                                                    Xem thơ nào biết có mình ở trong 
                                                    Lạnh lùng lòng lại hỏi lòng 
                                                    Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây? 

Thi sĩ d’Arvers yêu một người đẹp mà tuy gặp gỡ hàng ngày nhưng không bao giờ chàng dám tỏ tình với người mình yêu cả ! Chàng giữ kín mối tình câm đó suốt đời mình, và nghĩ rằng sẽ có một ngày, người đẹp đó đọc bài thơ này, rồi bâng khuâng tự hỏi : Ai là người đã được mô tả trong mấy dòng thơ đây ? Vào những năm đầu của thập niên bốn mươi, cũng như một số các nhạc sĩ trẻ khác, vừa bước vào con đường nhạc tình, tôi đã bị ảnh hưởng “Bài Thơ Tình Câm Lặng” của thi sĩ d’Arvers đó cho nên tôi đã có vài bài tình ca ấp úng như bài Cô Hải Mơ, trong đó tôi mang số phận của Nguyễn Bính để tỏ tình với người đẹp mà chẳng được cô ta trả lời chúng tôi lấy một lời !  Hoặc như bài Cây Đàn Bỏ Quên, trong đó, cũng giống như anh Trương Chi/Văn Cao sau này, tôi bâng khuâng tự hỏi người đẹp yêu tôi hay chỉ yêu tiếng đàn của tôi mà thôi ? Nhưng nếu thi sĩ d’Arvers còn có một người đẹp để yêu vụng nhớ thầm và làm thơ, thì lũ nhạc sĩ trẻ nhát gái như chúng tôi lại chẳng có ai để mà soạn nhạc tình dâng hiến ! Chúng tôi toàn soạn nhạc tình cho người tình tưởng tượng !  Tôi không biết các ông tổ sư của loại nhạc tình trong Tân Nhạc Việt Nam như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh hay Lê Thương… khi soạn ra những bản tình ca bất hủ mà ai nấy đều biết, đều hát thì có một người yêu bằng xương bằng thịt nào ở bên cạnh quý vị đó hay không ? Duy có điều tôi biết rất ư chắc chắn là : Vào năm 1945, khi soạn hai bài nhạc tình Suối Mơ và Bến Xuân thì Văn Cao đã tưởng tượng ra những cảnh :  
Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối…
Nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương gió mát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi… … 

Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân…

Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân…
Thực ra thì chẳng có em nào cả ! Tuy rằng người tình tưởng tượng có đôi mắt như dáng thuyền soi nước… với tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng… cũng cho nhạc tình Việt Nam một vài cảnh đẹp như liễu dương hơ tóc vàng trong nắng… khiến cho du khách, sau khi gột áo phong sương trở về bến cũ, nhớ người tình xưa… còn ngại ngùng nhìn bến xuân. Chao ôi là tưởng tượng ! Nếu có dịp nào chúng ta đi tìm nhạc tình trong lịch sử thi ca và âm nhạc cổ truyền Việt Nam, chúng ta sẽ ngạc nhiên vì hiếm thấy có những bài thơ hay những bài hát nói đến tình yêu trai gái. Có lẽ trong dĩ vãng có ông cụ họ Khổng đã kê sẵn một cái bàn trong con tim và khối óc các tình nhân cổ xưa để kiểm duyệt nhạc tình một cách hơi khắt khe chăng ? Trữ tình đến như hát quan họ thì cũng chỉ dám nói đến chuyện nắm cổ tay không cho người yêu ra về ! Hoặc vui mừng như trong hát giao duyên thì cũng vẫn chỉ là : 
Gặp nhau đây
Nắm tay cho chặt
Anh hỏi nàng
Có thật yêu không ?

Hay buồn rầu như trong hát ví, vì không nắm được cổ tay :
Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Đôi ta dan díu bấy lâu
Biết rằng có lấy được nhau mà chờ ?

Phải đợi cho tới khi Tân Nhạc ra đời vào những năm cuối ba mươi và đầu bốn mươi, chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn đầu tiên của người Việt Nam, do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn… tung ra ! Tất cả những bản nhạc tình đó, cũng giống như nền Thơ Mới của Việt Nam lúc bấy giờ, đã có phần nào bị ảnh hưởng văn chương và thi ca lãng mạn Pháp.  Cụ thể mà nói thì những bài thơ như Sonnet d’Arvers đã ảnh hưởng tới lũ chúng tôi, những người viết nhạc tình đầu tiên của Việt Nam theo lãng mạn tính của cá nhân chủ nghĩa trong thi văn Pháp. Tuy nhiên, loại nhạc tình lãnh mạn đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được xuất phát ra từ một con người tài hoa bậc nhất của giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao ! Chẳng khác chi lớp nghệ sĩ trẻ tuổi và lãng mạn vào lúc đó, Văn Cao cũng bị mùa Thu ám ảnh ! Những bản nhạc tình lãng mạn đầu tiên của ông đều nói tới mùa Thu. Những bài như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu lại còn pha trộn thêm cái buồn Đông Phương. Lời ca nghe như một câu thơ Đường : 
Thu cô liêu tịch liêu,
Cô thôn chiều.. Ta yêu Thu yêu Thu yêu mùa Thu! 

Tuy chỉ là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia Cung Đàn Xưa ra bốn đoạn rõ ràng. Đoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa với một âm giai sol trưởng và một nhịp valse như trong bài Thu Cô Liêu : 
Hồn cầm phong hương
Hình bóng xuân tàn
Ngày dần buông trôi
Sầu vắng cung đàn.
Lời đàn năm xưa
Xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay
Chia rẽ đôi lòng.

Đoạn 2 nói tới cung Thương, cung Nam nghĩa là những cung đàn ai oán trong âm nhạc cổ xưa, những chủ đề mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều có nói tới qua những bài như Tiếng Đàn Xuân, Khối Tình Trương Chi :
Cung Thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi !

Sau khi đã đổi nhịp trong đoạn 2, với đoạn 3, Văn Cao chuyển qua một nhịp điệu khác, nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa : 
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc xuân sắp tàn
Ôi đàn xưa !
Còn vang nhắc chỉ đến người?
Lòng ta tắt bao thắm tươi
U hoài duyên đưa…

Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một Cung Đàn Xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mỹ, một người tình tưởng tượng có đỗi mắt giữ lại mùa xuân, có đôi chân đi tới đâu hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy yêu thương… khiến cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị :
Chiều năm xưa Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu Xuân
Dảng hồng thơm hương…
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương !
Bài hát sẽ trở lại đoạn đầu để hết…

Sau hai bài Thu Cô Liêu và Cung Đàn Xưa mà ít người biết tới, Văn Cao soạn Suối Mơ và Bến Xuân. Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó, thì hai bài Suối Mơ và Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó, các nhạc sĩ khác còn đang luẩn quẩn tìm cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn Cao đã viết hẳn ra một Bài Thơ Bên Suối :
Suối mơ Bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương ?
Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương…

Sau này người ta gọi nó là Suối Mơ, nhưng thực sự nó mang cái tên là Bài Thơ Bên Suối. Trong lúc tình ca Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Lê Thương còn vướng víu nhiều hình tượng cổ điển thì Văn Cao đã đưa ra những hình ảnh mới trong nhạc tình :
Suối ơi !
Ôi nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến !
Đàn ai nắn buông lưu luyến
Suối hát theo đôi chim quyên…

Cái mới trong hình ảnh, cái mới trong tương quan giữa cảnh và người đưa ra trong nội dung, cái mới cả trong nhạc điệu… Sau hai lần mô tả con suối dẹp trong rừng thu với nhạc đề một, Văn Cao chuyển qua nhạc đề hai để hẹn hò với người yêu cùng xây nhà bên suối, cùng nghe suối róc rách trôi, cùng ngửi mùi hoa lừng hương gió ngát… và cũng không quên cái cảnh đàn nai đùa trong khóm lá vàng rơi ! Bài hát ăm ắp hình tượng mùa Thu yêu đương !  

Rồi ca khúc chuyển nhẹ qua giọng majieure để nhắc nhở tới chuyện xa nhau giữa hai người tình: Tơ đàn chùng theo với tháng năm Rừng còn nhớ tới người Trong chiều nào giữa chốn đây Hồn cầm lắng tiếng đời… Cuối cùng, nhạc đề một trở lại với kết luận là con suối trong rừng Thu sẽ buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta : 
Suối ơi ! Nghe rừng heo hút…
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu ?

Cũng với nhạc thuật tương tự, Văn Cao đưa ra bài Bến Xuân. Cũng cảnh mô tả xây nhà với người yêu nhưng ở đây không còn là nhà bên suối trong rừng mùa Thu, mà là nhà bên cạnh một bến nước trong một mùa Xuân… Cũng có chim đùa giỡn với hai người tình, nhưng ở đây loài chim còn có cả một vùng chân trời góc biển cao rộng, để tung cánh bay đi thành đàn chim Việt. Người tình trong Bến Xuân rõ nét hơn. Mối tình nơi bến nước lâu dài hơn. Suối Mơ là một khung cảnh Bến Xuân là một câu chuyện : 
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước..
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng.

Dù cả hai bài tình ca này đều được xây dựng trên hệ thống âm giai Tây Phương nhưng nó đều có những âm hình rất Việt Nam, ví dụ nét nhạc si la sol la re trong đoạn nhạc trích dẫn kể trên, nghe như một nét nhạc Việt diệu Nam hơi oán… Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang… Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không tìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy nguôi ngoai, sảng khoái… Suốt hơn ba mươi năm, bây giờ nhìn vào bản nhạc này, tôi vẫn thấy như mình còn đang đứng ở trên một bến nước nào đó của tuổi Xuân xa xưa… nhìn những cánh buồn nâu trên sóng và nghe những tiếng chim ca lưu luyến cuộc tình vừa qua của một đôi lứa… 
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân!
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua…

Văn Cao tài hoa như thế mà tiếc thay, ông chỉ soạn có năm hay sáu bản nhạc tình trong đó có hai bài hát vĩ đại là Thiên Thai và Trương Chi. Bài Buồn Tàn Thu thì không có giá trị nghệ thuật cao như những bài tôi vừa kể, nhưng vì nó được hát lên rất nhiều lần trên sân khấu gánh hát rong và trên đài phát thanh Sài Gòn trong những năm 44-45 là lúc Tân Nhạc còn mới phôi thai, cho nên nó được nhiều người biết tới. Nhưng những bài tình ca nhỏ nhặt đó sẽ bị mờ đi khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời. Với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt chúng ta lên tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở. Tôi đã có dịp nói tới không khí Đường Thi trong nhạc Văn Cao, nghĩa là nói tới chất thơ trong sáng, cô dọng ngay từ trong những bản nhạc đầu tiên của ông. Ta thấy những bài Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu như có vẻ vừa thoát ra từ khung cảnh Thu Hứng của Đỗ Phủ.  

Nghe câu hát trong bài Cung Đàn Xưa : “Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng nồng thơm hương”… thì ta nghe như một câu thơ Thôi Hiệu… Nhưng trong thời kỳ hình thành và phát triển của Tân Nhạc, Văn Cao cũng không là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất đã bị ảnh hưởng của thơ Đường. Nhạc sĩ đàn anh Lê Thương mà đã chẳng biết dùng khung cảnh Trăng Quan San của Lý Bạch để soạn ra câu hát : "Qua Thiên San kia ai tiễn rượu vừa tàn". khiến cho ba bản Hòn Vọng Phu của ông trở thành bất diệt đó à ?  Có lẽ cũng cảm thấy ma lực của Đường Thi trong Tân Nhạc cho nên về sau này tôi cũng mượn không khí của Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự – Dạ bán chung thinh đảo khách thuyền của Trương Kế để soạn ra câu hát trên sông Lô : 
Thuyền tôi đậu bến sông Lô
Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than…

Nếu chúng ta đi xa thêm vào dĩ vãng, ta lại còn thấy trong truyền thống Hát Ả Đào, những bài thơ như Tương Tiến Tửu, Tiền Hậu Xích Bích… của thơ Đường đã trở thành những điệu hát hoàn toàn Việt Nam. Còn trong sân khấu Cải Lương Miền Nam, thì cũng lại có hẳn một diệu hát được gọi tên là Dạ Bán Chung Thinh. Ai cũng bị ảnh hưởng Đường Thi mà chẳng nói ra hay chưa có dịp nói ra. 

Nhưng với bài Thiên Thai ra đời vào năm 1944 thì Văn Cao đã không ngần ngại để viết mấy câu tựa như sau : …
Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi ! 

                                                  MÙA XUÂN GIÁP THÂN, VĂN CAO

Ta hãy thử xem những bài thơ Đường mà Văn Cao vừa kể ra như Đào Nguyên Hành của Vương Duy và Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai của Tào Đường đã có những gì để khiến cho người nhạc sĩ mang thêm bí danh là Người Sông Ngự này đã phải lạc cảm xúc ? Bài thơ của Vương Duy dẫn chúng ta vào một khung cảnh thần tiên : 
                                                   Chiếc thuyền câu đẩy đưa trên sông nước
                                                   Mê sắc trời núi đẹp ánh xuân xa
                                                   Đôi bờ Đào Hoa, bến thuyền xưa ấy 
                                                   Ngồi ngắm nhìn cây thắm, không biết xa… 

Chốn suối hoa đào thần tiên đó mà có được, chẳng qua cũng chỉ vì thi sĩ có quá nhiều gian khổ trong cuộc đời cho nên đã phải tạo ra cho mình một nơi để ẩn lánh. Một nơi mà sau này thi sĩ Vũ Hoàng Chương bước vào phải lạc lối, người thơ của lên đường Tản Đà tới được thì, sau nửa đêm tiên cảnh, một bước trần ai… sẽ phải giã biệt cảnh đẹp lý tưởng đó với tiếng suối tiễn, oanh đưa… Và nếu chúng ta có tới được thì cũng chẳng ở lâu, cũng giống như truyện dài hai chàng thư sinh mang họ Lưu, họ Nguyễn lạc vào cõi Thiên Thai vậy ! Ở dưới trần thì mơ lên tiên. Ở cảnh tiên thì lại đòi về dương trần… Đó là thân phận con người, la condition humaine.
Bài thơ của Tào Đường thì diễn tả cảnh hai chàng thư sinh đi hái thuốc, không ngờ lại tới được chốn Đào Nguyên :
Khe cây, lối đá nhận đường vào
Hoa cỏ không vương mảy bụi nào
Nhìn bóng dáng mây quên việc trước
Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao
Muốn biết về đâu non nước ấy ?
Hỏi thăm, nên tới suối Hoa Đào.

Người Sông Ngự /Văn Cao đã thú nhận rằng mình đã bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện Đào Nguyên, Thiên Thai cho nên đã soạn ra bài hát. Một bài hát, theo tôi, thật tuyệt diệu. Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu như hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó… thì bản Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một hình thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số 94 khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca tuyệt diệu. 

Với tài năng đã nở rộ cùng với bước đi tới của Tân Nhạc, Văn Cao mô tả cảnh đầu của bài Thiên Thai, cảnh hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Đào Nguyên :
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên…
Kìa đường lên tiên
Kìa nguồn hương duyên,
Theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến
Mấy cung u huyền
Mấy cung triều mến
Như nước reo mạn thuyền…

Sau khi mở ra một tiếng hát của ai không biết, hát vang lừng trên sóng, để đẩy đưa hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Đào Nguyên…, thì, với một nét nhạc leo thang, Văn Cao vẽ ra con đường lên tiên, nơi nguồn hương duyên, theo gió bay lên với tiếng đàn xao xuyến… Ngay trong cảnh đầu của bài ca, ngay từ khi con thuyền nào đó (con thuyền câu của Đào Nguyên Hành ?) đưa hai kẻ si tình này đi vào cõi mộng, Văn Cao chỉ nói tới phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung triều mến như nước reo mạn thuyền… Tuyệt nhiên không có tả cảnh ! Con đường lên tới Suối Hoa Đào cũng không phải qua khe cây hay lối đá để nhận đường vào… như trong bài thơ của Tào Đường. Tôi thì nghĩ rằng đây có lẽ là chiếc thuyền của anh Trương Chi mà Văn Cao đã cho hai chàng Lưu Nguyễn mượn tạm. 

Và cũng âm ba của giọng hát mà Văn Cao nói tới trong đoạn này đã làm cho hoa đào nơi suối tiên phải rụng cánh, có lẽ đó là tiếng hát của người thợ chài trên Sông Ngự, trong cuộc đời có thực hay trong cổ truyện lung linh vậy. Tiếng hát đưa đẩy con thuyền tình trôi trên sóng nước ngọc tuyền, và người trên thuyền cũng thấy quê hương dần xa lấp trong núi ngàn như trong hai bản Đường Thi, để gặp một tiếng hát khác, tiếng hát của bậc tiên bên bờ Đào Nguyên :
Âm ba, thoảng rụng cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước ngọc tuyền
Ai hát bên bờ Đào Nguyên ? 

Trong đoạn này, Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều màu sắc của khung cảnh thần tiên này. Màu sắc ở đây lại không có gì sặc sỡ, nó mơ hồ, nó nên thơ, nó huyền diệu… Ai hát bên bờ Đào Nguyên ? Đấy là bầy thiên tiên đang đứng hát đón chờ hai gã tình lang tại một nơi còn nguyên vẹn trinh tiết bởi vì mùa Xuân ở đây chưa bao giờ gặp bướm trần gian tới làm cho Xuân phải ô uế, và mùa đào thì theo dòng ngày tháng chưa hề bao giờ tàn. Với một nhạc điệu rất đẹp chảy dài từ bát độ trên xuống bát độ dưới, với một nhịp điệu lẳng lơ nhưng thanh thoát, Văn Cao cho chúng ta một đoản khúc có thể là khúc Nghê Thường mà ta vẫn nghe nói tới trong Đường Thi :
Thiên Thai !
Chốn đây hoa Xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên tiên !
Chúng em xin dâng chàng hai trái đào thơm
Khúc Nghê Thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn…

Nhạc bỗng sáng lên, chuyển qua giọng majieure nhưng lời ca thì vẫn chỉ nói tới tiếng đàn, tiếng nhạc… Tuyệt nhiên không nói tới người. Bầy tiên chỉ là hư ảnh. Biết đâu, ngay cả hai chàng Lưu Nguyễn cũng không có mặt trong bài ca ? Rồi nhạc lại chuyển vội về giọng mineure để nói rằng tiếng đàn xui chúng ta quên đời dương thế, tiếng đàn non tiên cũng biết khao khát cuộc tình duyên.
Đàn soi trăng lên, nhạc lắng tiếng quyên
Đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc Bồng Lai!
Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi.
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên.

Cho mãi tới bây giờ Văn Cao mới hé cho ta thấy cuộc ái ân nổi dậy giữa hai người tiên người phàm bằng cách quay lại với nhạc đề chính trong bài ca :
Thiên Thai ! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần!

Đàn phách lại nổi lên ! Nhạc Văn Cao rộn rã một cách khác thường trong đoạn này ! Gió hắt đi những tiếng hát. Những tiếng hát này sẽ làm se lòng người mỗi khi được nghe lại. Lưu Nguyễn quên trần hoàn rồi. Họ cùng bầy tiên đàn ca một vài ba thế kỷ.
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi
Chắc không đường về tiên nữ ơi ! 

Rồi cũng với nhạc đề này, Văn Cao nói tới sự quay trở lại đường tiên của hai ông cụ già Lưu Nguyễn, nhưng than ôi, Đào Nguyên đã biến mất rồi ! 
Chỉ còn rền lại tiếng ca của cõi tiên.
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chỉ ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước, Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nào?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.

Tuy viết ra một bài hát vừa có tính trường ca, vừa có tính nhạc cảnh, nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này. Tất cả những hình ành chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ… giống như trong một giấc mộng vậy.  

Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy tiên múa hát dâng trái đào thơm… nhưng ta không thấy được họ. Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà cỏ bên Suối Mơ hay trước Bến Xuân với hai tình khúc trước, thì Văn Cao có thể mời đón chúng ta bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống lá vàng tươi. Nhưng trong Thiên Thai, cõi mở của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Đây là cõi riêng của Người Sông Ngự. Nhưng ta lại được tự do tuyệt đối để nghe lên toàn thể tiếng đàn, tiếng hát vút lên từ đầu tới cuối của trường khúc Thiên Thai này, tiếng đàn, tiếng hát mà tôi đã cho là anh Trương Chi trong truyện cổ của chúng ta, và nhạc sĩ Văn Cao đã cho Thiên Thai mượn tạm. 

Thiên Thai là cõi riêng của Văn Cao, Trương Chi mới là tiếng hát của Văn Cao. 

Thuở tôi còn nhỏ, ở Hà Nội thường có những người đi hành khất bằng giọng hát, nghĩa là họ đến trước cửa từng nhà để hát những câu truyện cổ Việt Nam, hát xong thì ngửa tay xin tiền. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh người ca sĩ/ăn mày đó, miệng thì hát, tay thì đập vào cái hộp sắt bỏ trong túi áo để đánh nhịp cho bài hát. Và hình như anh ta chỉ có một bài hát duy nhất để làm vũ khí cho nghề ăn xin của anh mà thôi. Đó là bài hát về anh Trương Chi :  
                                                 Ngày xưa có anh Trương Chi 
                                                 Người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay 
                                                 Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây 
                                                 Con quan Thừa tướng ngày ngày cấm cung… 

Sau này, tôi vẫn thường cám ơn thầm người hành khất bằng giọng hát đó, bởi vì ngay từ khi tôi chưa có đủ trí khôn để hiểu biết cuộc đời thì anh đã nuôi dưỡng tình cảm của tôi bằng một câu chuyện tình đẹp ngang với những chuyện tình đẹp nhất trên thế giới. 

Câu chuyện cổ tích về anh Trương Chi người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay mà ca nhạc cổ truyền đã xưng tụng qua hình thức hát rong, hát dạo, hát xẩm… cũng đã được các thi sĩ, văn sĩ của thời nay nhắc tới. Chẳng hạn như trong bài thơ Bài Ca Ngư Phủ của Vũ Hoàng Chương mà Hoàng Thư đã ngâm lên một cách mê ly trên các đài phát thanh ở trong nước cách đây hai, ba mấy chục năm. Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm thì viết truyện Le Cristal D’Amour bằng Pháp ngữ, in trong cuốn Légendes Des Terres Sereines. Thi sĩ Hoàng Cầm còn dùng truyện cổ đó để soạn vở kịch thơ Tiếng Hát. 

Trong giới Tân Nhạc, thì có Hùng Lân với bài Hận Trương Chi, Phạm Duy viết bài Khối Tình Trương Chi và Văn Cao viết bài Trương Chi.
 
Vài bài hát nói lên một nỗi hận, Hùng Lân không kể chuyện anh Trương Chi, ông chỉ mượn một nhân vật tiêu biểu cho giới cầm ca để nói luôn đến chuyện Tử Kỳ và Bá Nha, chuyện người hát hay, đàn hay mà không có người thưởng thức. Phạm Duy là tôi lúc còn ấu trĩ, thì khách quan kể lại câu chuyện cổ truyền.  
Riêng chỉ có Văn Cao là nói tới nhân vật tài hoa truyền kỳ này, nói tới sự não nuột trong tiếng nhạc Trương Chi, nói tới con người và số phận, đồng thời cũng nói về mình. 

Không phải bây giờ Văn Cao mới nói tới Trương Chi. Người Sông Ngự đã đưa hồn Trương Chi vào hồn mình từ lâu rồi. Từ khi nói tới một trong những chiều năm xưa có những cung đàn cũng năm xưa ấy réo rắt lên, bên một người con gái đẹp… mà : 
                                              …gót hài khai hoa 
                                                 Mắt huyền lưu Xuân 
                                                 Dáng hồng thơm hương 
đã khiến cho chàng Trương Văn Cao phải đưa vào mộng mị : 
                                                 Chiều năm nay 
                                                 Tiếng người khơi thương 
                                                 Tiếng đàn giao hoan 
                                                 Giấc mộng chàng Trương…

Lúc đó, Văn Cao chỉ mới hé lộ cho ta thấy tâm hồn của ông là tâm hồn của chàng ngư phủ thất tình họ Trương. Bây giờ, ông phát triển tiếng hát câm lặng đó bằng một trường khúc não nuột nhưng cũng rất kiêu sa. 
Bài hát mở đầu bằng những câu nhạc dài, giống như trong bài Thiên Thai, nhưng có tính cách mô tả nhiều hơn.
                                                 Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ 
                                                 Trầm trầm không gian mới rung thành tơ 
                                                 Vương vất heo may hoa yến mong chờ 
                                                 Ôi tiếng cầm ca, Thu tới bao giờ ! 

Kiêu sa lắm chứ ! Khi Văn Cao cho rằng từ lúc mới có Trời, có Đất… khi chưa có Thơ thì đã có Nhạc rồi. Và chỉ có Nhạc mới kéo được mùa thu tới cho loài hoa, loài chim, loài người… 
Rồi cũng với câu nhạc đó, Văn Cao đưa tiếng nhạc Trương Chi tới Mỵ Nương : 
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn…

 Một nét nhạc cho ta thấy Mỵ Nương vui vẻ chờ đợi tiếng hát:

Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi 
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi
Lả lơi bên trời….
Anh Trương Chi ! Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung
Anh thương nhớ, oán trách cuộc từ ly não nùng
Đò trăng cắm giữa sông vắng
Gió đưa câu ca về đâu?

Nét nhạc bây giờ vút lên, như tiếng nức nở của Trương Chi sau khi Mỹ Nương bị thất vọng về cái nhan sắc của anh :
Nhìn xuống đáy nước sông sâu
Thuyền anh đã chìm đâu!

Thuyền anh đã chìm đâu ! Có nghĩa là anh đã gieo mình xuống sông tự tử, nhưng oan hồn của anh còn đó khiến cho tiếng hát vẫn không tắt nghỉ. Khách giang đầu còn được nghe mãi mãi tiếng than khóc của Trương Chi : 
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi
Sương thu vừa buông xuống cây ven bờ xa
Mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha thiết
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng ta trăng khi về khuya
Bao tiếng ca ru mùa Thu

Nhưng Trương Chi có thực sự than khóc cái nghèo nàn, cái xấu trai của mình hay không ? Ta hãy nghe Văn Cao chuyển cung từ rê thứ qua sol trưởng một cách sướng tai vô cùng, để diễn tả giọt mưa rơi ngoài song cửa My Nương, như rơi trên những cung đàn huyền diệu… Mưa cũng rơi trên con thuyền ngoài dòng sông lạnh, thuyền này chưa chắc đã là của anh Trương Chi :
Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than
Trầm với tiếng gió vương
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa

Vào thuở năm 1946, trong lúc Tân Nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có. Nếu ta nhận ra nét nhạc sol trưởng trong đoạn mưa rơi trên cung đàn này là nhạc ngũ cung thì ta lại càng yêu quý Văn Cao hơn lên. Câu chuyện tình éo le nhưng rồi cũng kết thúc một cách đẹp đẽ : Trương Chi chết đi nhưng vì cuộc tình chưa thỏa cho nên trái tim không chịu tan và hóa thành ngọc đá. Rồi người đời đem viên ngọc đó ra để làm thành một chén trà dâng tặng gia đình nhà quan. Trong một tiệc trà, Mỵ Nương bưng chén ngọc lên, thấy hình ảnh chàng ngư phủ cất tiếng hát trong lòng chén. Thương nhớ con người và giọng hát năm xưa, nàng rơi lệ ! Giọt nước mắt nhỏ xuống chén ngọc. Thế là mối oan tình từ bao năm nay đã được thỏa mãn. Và bấy giờ thì chén ngọc, hay trái tim của chàng Trương Chi, mới tan đi… Văn Cao không đả động tới chuyện đó. Ông chỉ tiếp tục xoáy vào nhân vật Trương Chi :
Đò ơi !
Đêm nay dòng sông Tương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây, ta gõ ván thuyền ta ca trái đất còn riêng ta
Đàn đêm thâu !
Trách ai khinh nghèo quên nhau
Đôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Đâu bóng thuyền Trương Chi.

Như tôi đã nói, Văn Cao không kể lại câu chuyện Trương Chi/Mỵ Nương. Ông chỉ tỏ thái độ của chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết : 
                                                Ngồi đây ta gõ ván thuyền 
                                                Ta ca trái đất còn riêng ta ! 

Tâm hồn tôi đẹp – vì tôi hát hay mà – nhưng hình hài tôi xấu, người không yêu tôi à ? Thì tôi vẫn có cuộc đời hay trái đất này để ra một tuyên ngôn : Trái đất còn riêng ta ! Trách ai khinh nghèo quên nhau ! Trách ai ? Trách xã hội hay trách người đời không bao giờ dung nổi con người nghệ sĩ ? Ta vẫn còn riêng ta. Đó là ý nghĩa của bài Trương Chi. Người Việt Nam, yêu nhạc, trải qua gần năm mươi năm của lịch sử Tân Nhạc lúc nào cũng sẵn sàng bị phản bội. Không phải tới bây giờ, ở trong những cộng đồng Việt Nam hải ngoại, những nhà tái bản sách nhạc, những con buôn của nghề sản xuất lậu băng nhạc, những ca sĩ không biết tự trọng… luôn khinh miệt người sáng tác bằng cách sử dụng bừa bãi những tác phẩm làm bằng mồ hôi nước mắt của tác giả, nhưng không xin phép, không trả tác quyền, không đề tên tác giả trên bìa băng, không hát đầy đủ lời ca của tác phẩm… Ngay từ hồi Văn Cao viết bài tình ca bất hủ Trương Chi này, người ta cũng không bao giờ chịu để ý tới lời 2 của nhạc phẩm để in ra hoặc hát lên. Hôm nay, tôi có dịp để ghi lại những lời ca đẹp như trái tim ngọc đá của ngư phủ họ Trương : 
                                                Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ 
                                                Lạc loài hương thu thoảng vương đường tơ 
                                                Ngây ngất không gian rên siết lay bờ 
                                                Bao tiếng cầm ca rung ảnh sao mờ 
                                                Nhạc còn lưu luyến nhắc ai huyền âm. 
                                                Lạnh lùng đôi dây tố lan trầm ngân 
                                                Trong lúc đêm khuya ai lóng tiếng cầm 
                                                Thu đã chìm xa xa ảnh nguyệt cầm. 
                                                Khoan khoan đò ơi! Tương tư tiếng ca
                                                Chàng Trương Chi cất lên hò khoan 
                                                Đêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi ! 
                                                Nhạc ơi, thôi đành… 

Có một điều buồn đến với tôi khi hát lên lời 2 của bản Trương Chi này. Văn Cao tiên tri cái ngày mà ông không được phép đàn hát nữa ? Như đã xảy ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm ?
                                                Đêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi ! Nhạc đi. Thôi đàn…

Đêm Thu đến với Văn Cao, quả rằng nó đã quá dài ! Dài tới ba mươi năm lẻ ! Văn Cao đã chết đi như Trương Chi, trái tim chàng có lẽ cũng đã thành viên ngọc đá. Ai là người sẽ nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao ?

PHẠM DUY 
(Trích VĂN HỌC số 15, 16, 17 tháng 4, 5, 6 năm 1987 với sửa chữa của tác giả)
Nguồn: nhacxua.vn - Báo Hợp Lưu