30 April 2023
Huynh trưởng Nguyễn Thành Nhơn qua đời
29 April 2023
Giọt Nước Mắt Người Phụ Nữ Bên Thắng Cuộc
“Từ năm 1986, khi lập nhóm đấu tranh ‘Vì Nước Việt’, tôi chủ động cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với mọi người, kể cả những người chung huyết mạch. Vì nhiều lý do. Nhưng không hiểu vì sao tôi lại chấp nhận giao du với chú, tự tôi cũng không hiểu.Năm 2005, chú sang đây, nhất quyết đòi đến nhà phỏng vấn, tôi đành chấp nhận dẫu rằng trên nguyên tắc, các cuộc phỏng vấn tôi đều phải thực hiện ở các quán cà phê. Công việc xong, chú ngẩng đầu nhìn bàn thờ nhà tôi.Thấy mắt chú chăm chăm vào pho tượng Phật, tôi bảo tôi đã thờ bức tượng hơn 6 năm và nay Phật đã nhập tâm tôi rồi. Âu cũng là duyên, nếu chú thích thì tôi tặng chú.Thế là chú chắp tay vái rồi ôm pho tượng xuống.Chú đi rồi, tôi chợt nghĩ: Phải chăng ta chấp nhận giao du với con người này vì ở một kiếp xa xôi nào đó cậu ta đã từng là đồng tu dưới cùng một mái chùa.Bây giờ, tôi là người viết văn và tôi đứng bên ngoài mọi tôn giáo, tôi coi Như Lai như một hiền triết, anh minh và từ huệ, không có tính cách như các vị sáng lập tôn giáo khác.Ngày 10 tháng Sáu vừa rồi, khi có người nhắn tin cho tôi, tôi gửi lại một lời nhắn:“Tôi đã chờ ngày này từ hơn 30 năm qua.”
26 April 2023
Cười Ra Nước Mắt Với Bức Thư Ông Tây Viết Về Giao Thông Hà Nội
Tác giả không phải chỉ viết về giao thông ở Hà Nội, mà về rất nhiều khía cạnh khác của một nơi đã từng được nhiều văn nhân thi sĩ gọi là "Đất Nghìn Năm Văn Vật", là "Thủ Đô Văn Hoá" của một nước. Với văn phong dí dỏm, tác giả lột tả nếp sống nhiều khi đảo ngược với quá khứ, với truyền thống của dân tộc. Người Hà Nội hôm nay khi cần thưởng thức món ngon ở đây có thể bất chấp danh dự, thật khác xa với câu ca dao "Tiếng chào cao hơn mâm cỗ" thuở xưa. Dưới ngòi bút trôi chảy tác giả còn vẽ ra chính xác nhiều nét tâm lý nổi bật của người dân Hà Nội như rất thích ra "oai" hay nói theo ngôn ngữ miền Nam, thích "le lói". Tuy nhiên tác giả không hề tỏ ra nghiêm khắc, rất bao dung, cái bao dung của một người đang đứng giữa một công viên quốc gia với con mắt bàng quan thích thú khi bắt gặp những hình ảnh chưa hề thấy ở đâu trên trái đất này. Người dân Việt, khi đọc những dòng cảm nghĩ như thế của một người nước ngoài khi thăm đất nước mình, không thể cười được, mà cũng không khóc được, có chăng một nỗi buồn pha chút căm giận từ từ dâng lên. (TTR)
25 April 2023
Bạn Hiền Ơi Cho Hỏi, thơ
21 April 2023
Từ “cavalière” của Pháp ngày xưa đến “ca-ve” của Hà Nội hôm nay...
Hoàng Ngọc-Tuấn
Chữ "cavalière” của Pháp ngày xưa
Lang thang trên internet để tìm vài lời ca ngày xưa của Phạm Duy, tôi tình cờ nhìn thấy một bài báo trên tờ Đời Sống & Pháp Luật có nhan đề là “Sập bẫy cave trải chiếu giữa ‘khách sạn ngàn sao’ ở Hà Nội”. Đọc thử, tôi... tá hoả. Từ “cavalière” của Pháp ngày xưa đến quả là một sự khác biệt khủng khiếp!Trước hết, thử nói về chữ “cavalière”. Ngày xưa ở Pháp, vào đầu thế kỷ 17, “cavalier” (giống cái là “cavalière”) có nghĩa là “người cưỡi ngựa” (homme monté à cheval), rồi chữ này mang thêm nghĩa là “người đàn ông lịch lãm, một trang nam tử” (galant homme, homme du monde). Đến năm 1688 thì nó lại thêm nghĩa là “người đàn ông tháp tùng một phụ nữ” (celui qui accompagne une dame), và đến năm 1690 thì nó có thêm nghĩa là “người đàn ông khiêu vũ với một phụ nữ” (celui qui danse avec une dame). Sau đó, chữ “cavalier” được dùng cho cả phái nữ (gọi là “cavalière”), và có nghĩa là “người bạn khiêu vũ”. Trong một đôi nam-nữ khiêu vũ, thì người nam là “cavalier”, người nữ là “cavalière”.
Mới đây, năm 2006, trong một luận văn dài 177 trang, nghiên cứu về những động tác cơ thể trong các điệu khiêu vũ cổ truyền ở đô thị Pháp, dưới nhan đề “L’engagement corporel dans les danses traditionnelles de France métropolitaine: Une approche par l’analyse fonctionnelle du corps dans le mouvement dansé”, do Catherine Augé và Yvonne Paire viết theo yêu cầu của Bộ Văn Hoá Pháp, “cavalier”/“cavalière” là thuật ngữ dùng để chỉ người khiêu vũ (nam/nữ).
Ấy vậy mà khi chữ “cavalière” rời nước Pháp, sang đến Việt Nam, thì lại dần dần đổi nghĩa, và bây giờ ở Hà Nội nó mang nghĩa hoàn toàn khác, như một trời, một vực.
Đầu tiên, chữ “cavalière” theo người Pháp sang Hà Nội, rồi xuống Sài Gòn. Người Pháp yêu thích khiêu vũ như một thú tiêu khiển thanh lịch. Buổi tối, sau khi ăn những món ngon miệng và uống vài cốc rượu, với cảm giác lâng lâng, từng đôi nam-nữ “cavalier”/“cavalière” mời nhau ra sàn nhảy. Thế nhưng, không phải lúc nào và không phải ai cũng có sẵn người tình của mình để làm bạn khiêu vũ, nên đôi khi họ phải mời một người nào đó cùng khiêu vũ với mình. Nhưng nếu không có ai ngồi một mình để mời, thì tính sao? Thì đành phải uống rượu trong sự cô đơn và xem thiên hạ khiêu vũ dập dìu chung quanh chứ sao!
Có cầu, ắt có cung. Thế là sinh ra một cái nghề mới ở Việt Nam, đó là nghề “vũ nữ”. Khác với “vũ công” trong các đoàn múa chuyên nghiệp, “vũ nữ” là người có khả năng khiêu vũ nhưng không sống bằng nghề trình diễn trên sân khấu mà sống bằng một nghề khác: ban đêm họ đến ngồi uống nước lai rai ở các phòng trà để chờ người đến mời mình làm bạn khiêu vũ và cho tiền thưởng.
Để được nhiều người mời khiêu vũ thì trước hết phải có nhan sắc, và tất nhiên phải có khả năng khiêu vũ điêu luyện và gợi cảm. Ai vừa có sắc vừa có tài thì được rất nhiều khách hâm mộ. Trong những năm 40, ở Hà Nội có những vũ nữ nổi tiếng tài sắc như cô Lý Lệ Hà (hoa khôi áo lụa Hà Đông), cô Mộng Điệp... Tài sắc của họ khiến bậc quân vương như Bảo Đại cũng phải say mê.
Thuở ấy, nhạc sĩ Phạm Duy chơi nhạc ở một trong hai phòng trà đầu tiên ở Hà Nội là Quán Thiên Thai ở phố Hàng Gai. Theo lời ông kể, ông có dan díu và sống chung với một vũ nữ của phòng trà Hanoi Bar. Nàng tên là Định. Năm 1946, trong thời gian sống cùng với nàng, ông đã sáng tác bài “Tình Kỵ Nữ”. Trong tập Ngày Đó Chúng Mình Yêu Nhau của Phạm Duy in tại Sài Gòn năm 1970, nhan đề của ca khúc này được in là “Tình Kỵ Nữ”, nhưng trong những năm gần đây lại thấy có nơi ghi là “Tình Kỹ Nữ”.
Nhan đề “Tình Kỵ Nữ” thật là thú vị, vì chữ “kỵ nữ” là do Phạm Duy dịch từ chữ “cavalière” mà ra. Sau này, khi bài hát “Tình Kỵ Nữ” đã bị các ca sĩ tự ý đổi thành “Tình Kỹ Nữ”, thì Phạm Duy có giải thích: “Ðáng lẽ ra, phải gọi bài này là TÌNH KỊ NỮ thì mới đúng với nghề ‘cavalière’ tức là nghề ‘taxi girl’ của nàng.”[1]
Lời giải thích của Phạm Duy thật thú vị ở chỗ ông dịch “cavalière” thành “kỵ nữ”, nhưng cũng dở ở chỗ ông cho rằng nghề “cavalière” tức là nghề “taxi girl”. Đúng ra, “cavalière” đâu phải là “taxi girl”. Chữ “taxi girl” bắt đầu xuất hiện ở Cambodia từ trước những năm 50, để chỉ những cô gái hành nghề mại dâm cá nhân, chuyên đón khách ở các công viên, quán nhậu, phòng trà... (chứ không phải làm việc trong những ổ mại dâm), và những cô “taxi girl” thì không có tài khiêu vũ như các “cavalière” chuyên nghiệp, và chắc hẳn phần lớn cũng không thể sánh với các “cavalière” chuyên nghiệp về nhan sắc.
Phạm Duy đã mô tả nhan sắc nàng “cavalière” Định như sau: “Vũ nữ Định đẹp một cách lộng lẫy, trông như con gái nhà lành. Hơn thế nữa, trông như con nhà quyền quý.”[2]
Hiển nhiên nàng “cavalière” Định không phải là “taxi girl”, vì sau khi làm công việc khiêu vũ với khách ở phòng trà Hanoi Bar, nàng về nhà ở Phố Hàng Gai với Phạm Duy, chứ không hề đi lang thang... bắt khách.
Những năm 50, 60 ở Sài Gòn cũng có những “cavalière” rất nổi danh về tài sắc, như Cẩm Nhung của vũ trường Kim Sơn, chẳng hạn. Báo chí Sài Gòn thời đó thường ca ngợi nhan sắc và đôi chân dài điệu nghệ của “nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung. Đầu những năm 70, một “cavalière” khác cũng nổi danh tài sắc là cô Ánh Hoa của vũ trường Văn Cảnh...
Giai thoại vũ nữ Cẩm Nhung mất nhan sắc vì làm kẻ thứ ba
Nhắc lại những chuyện ngày xưa, tôi muốn nói rằng các “cavalière” ở Hà Nội những năm 40, và ở Sài Gòn từ những năm 50 đến trước năm 75, là những vũ nữ chuyên nghiệp, có tài sắc. Họ có thể sống lãng mạn buông thả và vương vào nhiều mối tình rắc rối, éo le, bi thảm... nhưng họ không phải là những cô gái mại dâm. Họ hoàn toàn khác với những cô “cave” trong những thập kỷ gần đây ở Việt Nam.
Bài “Sập bẫy cave trải chiếu giữa ‘khách sạn ngàn sao’ ở Hà Nội” trên tờ Đời Sống & Pháp Luật mô tả hình ảnh những cô “cave” ở Hà Nội thời bây giờ như sau:
Ca-ve Hà Nội ngày nay |
Chưa hết. Bài báo mô tả thêm:
“... Có bảo kê, có dắt mối, có tổ chức, có mặc cả bán mua và có không biết bao nhiêu mánh lới làm tiền khách làng chơi. Đầu tiên phải kể đến chiêu lột đồ của khách. Khách vào đến chiếu, ngay lập tức có cả đám bậu xậu ra luộc sạch. Thế nên không ít kẻ háu gái sau những màn mây mưa quay ra thì ôi thôi ví tiền, điện thoại đều mất sạch. Khối người còn phải quay trở lại đây đem tiền đến để chuộc lại giấy tờ, tài sản. Ê chề hơn, có những kẻ chỉ còn cái quần lót đi về. Thế nhưng chẳng ai dám báo công an vì sợ điều tiếng, vì cái tội đi chơi gái bán hoa. Nực cười hơn, có anh vào đấy bị cô cave thông báo hết bao cao su. Ngay lập tức, đám ma cô ùa tới ép phải mua với giá 100.000 đồng. Không mua thì biết lấy gì hành sự, đành ngậm bồ hòn làm ngọt thì thôi đành vậy. Thông thường, mỗi khi có biến, các cô cave lại để cho đám ma cô ở lại mà giải quyết, còn mình thì lủi đi lúc nào không hay...”
Vậy thì quá hiển nhiên rằng “cave” ở Hà Nội thời bây giờ là những cô gái điếm mạt hạng, hoàn toàn khác với những cô “cavalière” tài sắc ở Hà Nội những năm 40 và ở Sài Gòn từ những năm 50 đến trước năm 75.
Vì sao như thế? Có lẽ ai cũng dễ dàng nghiệm ra câu trả lời.
Riêng tôi, sau khi đọc xong bài báo về “cave” Hà Nội thời bây giờ, tôi chợt nhớ lại mấy câu thơ trong bài “Tiếng hát sông Hương” mà Tố Hữu đã viết năm 1938 như một lời hứa đẹp đẽ rằng sau khi Đảng Cộng Sản lên nắm chính quyền thì đất nước sẽ không còn cảnh bán thân nuôi miệng. Bài thơ có những câu:
... Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong nắng trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mỏ lòng ra đón ngày mai huy hoàng...
Bây giờ nhớ lại những câu thơ trên, tôi chỉ muốn ói. Tôi muốn ói, vì những lời trau chuốt ấy chỉ là những lời dối trá. Hoàn toàn dối trá.
Hoàng Ngọc-Tuấn, Sydney, Australia
Chuẩn Bị Đi Tù, . . . chuyện hư hư thực thực
Sau khi nghe toà tuyên án, Đô Đốc Nguyễn Văn Hiến, tư lệnh quân chủng Hải Quân, lái xe về nhà để chuẩn bị đồ đạc đi tù.
Vừa vào đến nhà, bà vợ hỏi :
- Mấy cuốn ?
Hiến trả lời :
- Bốn.
Bà vợ bảo :
- Thế là may rồi, tôi chỉ sợ mang tiếng có thằng chồng chết rũ tù.
Hiến cáu :
- Cái lúc tôi đưa tiền cho bà, bà có nói thế không ?
Vợ Hiến bảo :
- Chuyện. Ăn thì phải khéo chứ. Bao nhiêu thằng ăn mà có bị làm sao đâu.
Hiến gằn giọng :
- Chúng nó chưa bị moi ra đấy thôi. Moi ra thì từ thằng chủ tịch nước trở xuống, thằng nào cũng đáng đi tù hơn tôi.
Uống vội một hớp nước, Hiến dịu giọng :
-Thế bây giờ bà có sửa soạn đồ cho tôi đi tù hay không ?
Vợ Hiến đi vào nhà trong lấy ra một cái va ly kéo hiệu Samsonite mua từ bên Anh. Hiến bảo :
- Đi tù chứ có phải đi du lịch đâu mà kéo cái này. Vào trong trại giam chúng nó cười cho, kiếm cái va ly nào cũ cũ ấy.
Vợ Hiến bảo :
- Nhà làm gì có đồ cũ, đứa nào cười thì vả vào mặt nó chứ.
Hiến bâng khuâng :
- Tôi có còn là đô đốc nữa đâu, bây giờ tôi là thằng tù hình sự có án. Ở trong đó toàn đại bàng với đầu gấu, đang lo không biết có bị đứa nào vả vào mặt không đây.
Hai vợ chồng đang ngồi loay hoay thu xếp ít quần áo và một đống thuốc trị bệnh Trĩ của Hiến cho vào va ly thì có khách đến. Khách là một người bạn thân của Hiến từ thời còn học trung học. Đánh trận ở biên giới phía bắc bị mảnh pháo vạt đi một mảng đầu, phục viên về cứ sống khẳng khái, không được kết nạp đảng dù thuộc diện đối tượng lâu năm. Sống chật vật với nghề nấu rượu lậu nhưng coi trời bằng vung. Được cái chơi với bạn bè rất tốt, thuỷ chung.
Vừa bước vào nhà, cái miệng người bạn đã oang oang :
- Thằng Hiến, mày giỏi. Mày không khóc ở toà là tao khoái rồi. Tao chỉ lo mày lại giống như mấy thằng khốn nạn kia, ở ngoài vênh váo, thượng đội hạ đạp, ăn cho nứt bụng, lúc đứng trước vành móng ngựa thì khóc như con nít. Một điều hai điều xin lỗi bác Trọng vung vít, cứ làm như chúng nó tham nhũng tiền túi của bác Trọng chứ không phải tiền thuế của nhân dân.
Hiến ngước nhìn bạn mình ngơ ngác :
- Khóc gì ? Đang mừng thấy mẹ đây. Lãnh 4 cuốn, ở tù cao lắm chừng 2 cuốn. Về tao cho vợ con qua Mỹ theo diện đầu tư hết. Chừng nữa triệu đô chứ bao nhiêu. Tao có đường dây rồi. Qua bên đó tao chống cộng cho mày coi. Bao nhiêu cái thối tha của tụi lãnh đạo tao sẽ khui ra cho bằng hết.
Người bạn nhìn chằm chằm vào mặt Hiến :
- Tụi mày hành xử như một lũ kẻ cướp với nhau. Mày cũng chẳng tốt lành gì. Đứng đầu quân chủng hải quân mà để giặc Tàu làm loạn ngoài Biển Đông. Sĩ quan cấp cao thì bận bịu bán đất quốc phòng chia nhau, mặc cho lính tráng phải ra ngồi chợ, bán từng bó rau để cải thiện bữa ăn.
Hiến hít một hơi dài, khuôn mặt xanh mét, mái tóc nhuộm chẻ bảy ba rịn những giọt mồ hôi :
- Chẳng làm gì được đâu. Chỗ bạn bè tao mới nói. Chúng nó bán hết biển đảo rồi. Mà bán sỉ chứ không bán lẻ nhá. Biết rõ được điều này nên hàng tướng lãnh bọn tao bây giờ thằng nào như thằng nấy, đếch thằng nào còn ôm lấy lý tưởng, chỉ chăm bẵm kiếm tiền lo cho bản thân thôi.
Người bạn nói :
- Tính cả mày thì giờ này cũng gần 2 chục tướng ngồi tù rồi. Thật không có quốc gia nào mà tướng lãnh đi tù nhiều như ở cái đất nước này. Nhưng chắc tụi mày vào đó cũng làm vua tù thôi....
Câu nói vô tình của người bạn đã chạm vào nỗi lo ngay ngáy thầm kín của Hiến. Hiến lắc đầu:
- Không đâu... Bà xã tao có đi hỏi thăm mấy người bạn có chồng đi tù, họ nói bây giờ tai to mặt lớn, bộ trưởng với lại tướng tá kéo nhau vào tù nhiều quá, không được phòng riêng nữa đâu. Con vợ của thằng tướng Hoá còn kể tù đại gia năm bảy người chung một phòng, cứ cãi nhau đánh nhau đến nỗi quản giáo phải cho mấy thằng tù nghèo vào ở chung để có người can. Bà ấy còn kể thằng bộ trưởng Trương Minh Tuấn 2 lần bị tù đại bàng đánh lén đến rách cả mắt về cái tội lúc còn là bộ trưởng viết sách dạy đạo đức, mang vào trại giam bắt chúng nó học, bây giờ chúng nó ghét.
Người bạn nghe vậy ái ngại nhìn bạn mình, Hiến né tránh cái nhìn ấy bằng cách cụp mắt xuống, chực khóc...
Đúng lúc ấy, gia đình đứa con gái ập tới. Cháu ngoại 8 tuổi của Hiến tung tăng nhảy lò cò vào nhà trước, thấy cảnh sắp xếp va ly liền reo lên:
- A ông ngoại chuẩn bị đồ đạc hành quân ra mặt trận đấy hả ông ?
Hiến không trả lời, cúi mặt xuống thấp hơn nữa, và từ bờ mi của Hiến, hai giọt nước mắt nhục nhã lăn nhanh xuống má.
2022-12-06
Loc Duong
10 April 2023
Cha Tôi Chết Không Cần Quan Tài
Đào Nam Hòa
Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7 (Đào Nam Hòa.)Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975.
Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả!
Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.
Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn. Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.
Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán.
Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ… Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít!
Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, giở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp.
Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.
Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. (Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)
Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic! Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông! Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.
Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.
Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.
Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi. Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố.
Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần "Ngụy quân, Ngụy quyền" nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng. Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.
10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là một lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc. Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:
- Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.
Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:
- Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.
Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!
Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận.
Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.
Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing.
Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975! Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở Ông vào một quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ.
Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con còn ở lại.
Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế…
Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …” Bố đọc thư không khóc! Mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ:
Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Việt Nam..
Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối. Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau một tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào một cái bao và kéo cái fermeture là xong!
Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương một giờ 8$ (lương tối thiểu) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ.
Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:
- Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!
Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng. Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc!
Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa .
Đào Nam Hòa