30 June 2020

Thế kỷ châu Á đang gặp hiểm họa

Tác giả: Lý Hiển Long
Dịch giả: Trần Ngọc Cư

“Trong những năm gần đây, người ta nói rằng thế kỷ tiếp theo sẽ là thế kỷ của châu Á và Thái Bình Dương, như thể đó là điều chắc chắn. Tôi không đồng ý với quan điểm này”. Nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lập luận đó với Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi vào năm 1988. Hơn 30 năm sau, Đặng tỏ ra đã biết trước. Sau nhiều thập kỷ thành công về kinh tế, châu Á ngày nay là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Trong thập kỷ này, các nền kinh tế châu Á sẽ trở nên lớn hơn so với phần còn lại của các nền kinh tế thế giới cộng lại, một điều chưa từng có từ thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, cảnh báo của Đặng vẫn còn giá trị: Một thế kỷ châu Á vừa không phải là điều tất yếu vừa không thể định trước được.

Châu Á đã phát triển thịnh vượng nhờ Pax Americana [nền hoà bình do Mỹ thiết lập] tồn tại từ cuối Thế chiến II, đã cung cấp một bối cảnh chiến lược thuận lợi. Nhưng bây giờ, mối quan hệ đầy khó khăn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã đặt ra những câu hỏi sâu sắc về tương lai châu Á và hình dạng của một trật tự quốc tế đang xuất hiện. Các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm cả Singapore, đặc biệt quan tâm, vì họ sống ở giao điểm lợi ích của nhiều cường quốc khác nhau và phải tránh bị mắc kẹt giữa hoặc bị ép buộc vào những lựa chọn làm mất lòng phe này hoặc phe khác.

Nguyên trạng ở châu Á chắc chắn phải thay đổi. Nhưng liệu cấu hình mới sẽ cho phép khu vực này thành công hơn nữa hoặc mang lại sự mất ổn định nguy hiểm? Điều đó phụ thuộc vào các lựa chọn mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đưa ra, riêng biệt và cùng nhau. Hai cường quốc phải xây dựng một thoả ước chung sống hòa bình, modus vivendi, theo đó họ sẽ cạnh tranh trong một số lĩnh vực mà không cho phép sự cạnh tranh này gây độc hại cho sự hợp tác ở các lãnh vực khác.

Các nước châu Á coi Hoa Kỳ là một cường quốc thường trú có lợi ích sống còn trong khu vực. Đồng thời, Trung Quốc là một thực tế lù lù ngay trước cửa nhà họ. Các nước châu Á không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa hai cường quốc. Và nếu một trong hai cố gắng ép buộc một lựa chọn như vậy — hoặc là Washington cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc hoặc là Bắc Kinh tìm cách xây dựng vùng ảnh hưởng độc quyền ở châu Á, họ sẽ bắt đầu một cuộc đối đầu kéo dài hàng thập kỷ và đưa thế kỷ châu Á từng được ca ngợi bấy lâu nay vào một nguy cơ.

HAI GIAI ĐOẠN PAX AMERICANA

Pax Americana ở châu Á trong thế kỷ XX có hai giai đoạn riêng biệt. Giai đoạn đầu tiên là từ năm 1945 đến những năm 1970, trong những thập niên đầu của Chiến tranh Lạnh, khi Hoa Kỳ và các đồng minh cạnh tranh với khối Xô Viết để gây ảnh hưởng. Mặc dù Trung Quốc gia nhập Liên Xô để đối đầu với Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, nền kinh tế của nước này vẫn tập trung nhắm vào bên trong, có tính cô lập, và ít có quan hệ kinh tế với các nước châu Á khác. Trong khi đó, những nơi khác ở châu Á, các nền kinh tế thị trường tự do đang cất cánh. Nhật Bản là nước làm như vậy  sớm nhất, tiếp theo là các nền kinh tế mới công nghiệp hóa của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan.

Thế lực giúp thể hiện sự ổn định và thịnh vượng của châu Á chính là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thúc đẩy một trật tự toàn cầu cởi mở, hội nhập, đặt cơ sở trên luật lệ và cung cấp một chiếc dù an ninh, theo đó các nước trong khu vực có thể hợp tác và cạnh tranh hòa bình. Các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ đã đầu tư rộng rãi vào châu Á, mang theo vốn, công nghệ và sáng kiến. Khi Washington thúc đẩy thương mại tự do và mở các thị trường Hoa Kỳ ra thế giới, thương mại châu Á với Hoa Kỳ đã phát triển.

Hai sự kiện quan trọng trong thập niên 1970 đã chuyển Pax Americana ở châu Á sang một giai đoạn mới: chuyến viếng thăm bí mật tại Trung Quốc năm 1971 của Henry Kissinger, lúc bấy giờ là cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, đặt nền tảng cho mối quan hệ Mỹ-Trung sau nhiều thập kỷ thù địch; và việc Đặng Tiểu Bình phát động chương trình cải cách và mở cửa năm 1978, cho phép nền kinh tế Trung Quốc cất cánh. Đến cuối thập kỷ, các rào cản kinh tế đã giảm xuống và thương mại quốc tế đang phát triển nhanh chóng. Sau khi chiến tranh Việt Nam và chiến tranh ở Campuchia kết thúc, Việt Nam và các nước Đông Dương khác đã có thể tập trung năng lượng và nguồn lực của mình vào phát triển kinh tế, và họ bắt đầu đuổi kịp phần còn lại của châu Á.

Nhiều nước châu Á từ lâu đã coi Hoa Kỳ và các nước phát triển khác là đối tác kinh tế chính của họ. Nhưng giờ họ ngày càng nắm bắt những cơ hội được tạo ra nhờ sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc. Thương mại và du lịch với Trung Quốc phát triển, và chuỗi cung ứng trở nên hợp nhất chặt chẽ. Chỉ trong vài thập kỷ, Trung Quốc đã đi từ địa vị kinh tế không đáng kể đối với phần còn lại của châu Á để trở thành khu vực kinh tế lớn nhất và là đối tác kinh tế quan trọng. Ảnh hưởng của Trung Quốc trong các vấn đề khu vực đã gia tăng tương ứng.

Tuy nhiên, Pax Americana vẫn đứng vững và những thay đổi triệt để này trong vai trò của Trung Quốc đã diễn ra trong khuôn khổ của trật tự hòa bình này. Trung Quốc không ở vào vị trí có thể thách thức tính ưu việt của Hoa Kỳ và đã không cố gắng làm điều đó. Thật vậy, Trung Quốc lấy châm ngôn “che dấu sức mạnh, chờ thời cơ” của Đặng làm triết lý chỉ đạo và đặt ưu tiên việc hiện đại hóa các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và công nghệ cao hơn việc xây dựng sức mạnh quân sự.

Do đó, các nước Đông Nam Á được hưởng những điều tốt nhất của cả hai thế giới, xây dựng mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc trong khi vẫn duy trì mối quan hệ bền chặt với Hoa Kỳ và các nước phát triển khác. Họ cũng tăng cường mối quan hệ với nhau và làm việc cùng nhau để tạo ra một kiến trúc cởi mở cho hợp tác khu vực bắt nguồn từ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương năm 1989, thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN năm 1994 và triệu tập Hội nghị cấp cao Đông Á hàng năm kể từ năm 2005.

Trung Quốc tham gia đầy đủ vào các quá trình này. Hàng năm, thủ tướng Trung Quốc tới một quốc gia thành viên ASEAN để gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các nước ASEAN, chuẩn bị tốt để giải thích quan điểm của Trung Quốc đối với khu vực và trang bị sẵn sàng các đề xuất nhằm tăng cường hợp tác giữa Trung Quốc với các thành viên trong nhóm này. Khi phần hùn hạp của Trung Quốc trong khu vực gia tăng, họ đưa ra các sáng kiến của riêng mình, bao gồm Sáng kiến Vành đai và Con đường và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á. Những điều này đã giúp tăng cường sự tham gia của Trung Quốc với các nước láng giềng và dĩ nhiên, làm tăng ảnh hưởng của Bắc Kinh.

Nhưng nhờ kiến trúc khu vực có tính cách cởi mở, nên ảnh hưởng của Trung Quốc không phải là độc quyền. Hoa Kỳ vẫn là một thành viên quan trong trong việc củng cố an ninh và ổn định khu vực và tăng cường tham gia kinh tế thông qua các sáng kiến như Đạo luật Sáng kiến Tái bảo đảm châu Á [the Asia Reassurance Initiative Act] và Đạo luật BUILD [the Better Utilization of Investment Leading to Development]. ASEAN cũng có các cơ chế đối thoại chính thức với Liên minh châu Âu, cũng như với Ấn Độ và nhiều quốc gia khác. ASEAN tin rằng một mạng lưới kết nối như vậy tạo ra một khuôn khổ hợp tác mạnh mẽ hơn và nhiều không gian hơn để thúc đẩy lợi ích tập thể của các thành viên của mình,  trên phạm vi quốc tế.

Cho đến nay, công thức này đã hoạt động tốt. Nhưng cơ sở chiến lược của Pax Americana đã thay đổi từ căn bản. Trong bốn thập kỷ kể từ khi bắt đầu cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã được chuyển đổi. Khi nền kinh tế, khả năng công nghệ và ảnh hưởng chính trị của TQ tăng theo cấp số nhân,  thế giới quan của TQ cũng thay đổi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày nay không còn trích dẫn câu châm ngôn của Đặng về việc che giấu sức mạnh của mình và đợi thời cơ. Trung Quốc tự coi mình là một cường quốc lục địa và cũng khao khát trở thành một cường quốc hàng hải; TQ đã và đang hiện đại hóa lục quân và hải quân của mình và nhắm đến mục tiêu biến quân đội thành một lực lượng chiến đấu tầm cỡ thế giới. Càng ngày, và là một điều khá dễ hiểu, Trung Quốc muốn bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của mình ở nước ngoài và bảo đảm những gì họ coi là vị trí chính đáng của mình trong các vấn đề quốc tế.

Trong khi đó, Hoa Kỳ, vẫn là cường quốc ưu việt về nhiều mặt, đang đánh giá lại đại chiến lược [grand strategy] của mình. Khi tỷ lệ GDP toàn cầu của mình đang suy giảm, không rõ liệu Hoa Kỳ có tiếp tục gánh vác gánh nặng duy trì hòa bình và ổn định quốc tế hay không, hay thay vào đó, liệu Mỹ có thể chỉ theo đuổi cách tiếp cận hạn hẹp hơn, “Nước Mỹ trước tiên” [America First], để bảo vệ lợi ích của mình hay không. Khi Washington đặt các câu hỏi cơ bản về trách nhiệm của mình trong hệ thống toàn cầu, mối quan hệ của họ với Bắc Kinh sẽ được thế giới xem xét kỹ lưỡng.

NHỮNG LỰA CHỌN CƠ BẢN CỦA HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC

Hoa Kỳ và Trung Quốc mỗi nước phải đối mặt với những lựa chọn cơ bản. Hoa Kỳ phải quyết định xem Trung Quốc có trỗi dậy như một mối đe dọa cho sự hiện hữu của mình hay không và do đó cố gắng kìm hãm Trung Quốc thông qua tất cả các phương tiện có sẵn, hoặc là phải chấp nhận Trung Quốc là một cường quốc có quyền riêng của mình. Nếu chọn con đường thứ hai, Hoa Kỳ phải xây dựng một cách tiếp cận với Trung Quốc, sẽ thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong bất cứ lãnh vực nào có thể và không cho phép sự cạnh tranh đầu độc toàn bộ mối quan hệ. Lý tưởng nhất là cuộc thi đua này sẽ diễn ra trong khuôn khổ các quy tắc và chuẩn mực đa phương được thỏa thuận dưới loại hình đang quản trị Liên Hợp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Hoa Kỳ có thể thấy đây là một sự điều chỉnh đau đớn, đặc biệt là với sự đồng thuận ngày càng tăng ở Washington rằng việc lôi kéo Bắc Kinh đã thất bại và một cách tiếp cận cứng rắn hơn là cần thiết để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dù nhiệm vụ khó khăn đến bao nhiêu đi nữa, cũng rất đáng để Hoa Kỳ thực hiện một nỗ lực nghiêm túc nhằm đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc trong hệ thống các quy tắc và chuẩn mực quốc tế hiện nay. Hệ thống này áp đặt các trách nhiệm và các hạn chế đối với tất cả các quốc gia, củng cố niềm tin, giúp quản lý xung đột và tạo ra một môi trường an toàn và ổn định hơn cho cả hợp tác lẫn cạnh tranh.

Thay vào đó, nếu Hoa Kỳ chọn cách cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, thì sẽ có nguy cơ gây ra một phản ứng có thể đặt hai nước vào con đường dẫn đến nhiều thập kỷ đối đầu. Hoa Kỳ không phải là một cường quốc đang suy yếu. Nó có sức bật và các ưu điểm tuyệt vời, một trong số đó là khả năng thu hút nhân tài từ khắp nơi trên thế giới; trong số chín người gốc Hoa đã được trao giải thưởng Nobel về khoa học, tám người là công dân Hoa Kỳ hoặc sau đó trở thành công dân Hoa Kỳ. Mặt khác, nền kinh tế Trung Quốc có tính năng động to lớn và công nghệ ngày càng tiên tiến; nó không phải là một ngôi làng Potemkin phồn vinh giả tạo hay nền kinh tế chỉ huy toàn diện thuộc loại hình Liên Xô trong những năm cuối cùng. Bất kỳ cuộc đối đầu nào giữa hai cường quốc này đều khó có thể kết thúc theo cách Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, nhờ một quốc gia đã sụp đổ một cách hòa bình.

Về phần mình, Trung Quốc phải quyết định xem có nên cố gắng tìm đường trở thành một cường quốc quan trọng bất chấp mọi trở ngại, chiếm ưu thế nhờ sức nặng và sức mạnh kinh tế của mình, nhưng có nguy cơ bị đẩy lùi mạnh mẽ, không chỉ từ Hoa Kỳ mà còn từ các nước khác. Cách tiếp cận này có khả năng làm gia tăng căng thẳng và phẫn nộ, điều này sẽ ảnh hưởng đến vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong dài hạn. Đây là một mối nguy hiểm thực sự: một cuộc khảo sát gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy người dân ở Canada, Hoa Kỳ và các nước châu Á và Tây Âu khác có quan điểm ngày càng bất lợi về Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc có những nỗ lực gần đây để xây dựng sức mạnh mềm ở nước ngoài, thông qua mạng lưới các Viện Khổng Tử, và thông qua các tờ báo và đài truyền hình quốc tế thuộc sở hữu của Trung Quốc, xu hướng này là tiêu cực.

Ngoài ra, Trung Quốc có thể thừa nhận rằng họ không còn nghèo yếu và chấp nhận rằng thế giới hiện có những kỳ vọng cao hơn về họ. Trung Quốc không còn có thể biện minh về mặt chính trị để tiếp tục hưởng các nhượng bộ và đặc quyền mà họ giành được khi nền kinh tế của họ còn nhỏ bé và kém phát triển hơn —  như các điều khoản hào phóng khi gia nhập WTO năm 2001. Một Trung Quốc lớn hơn và mạnh hơn không những phải tôn trọng các quy tắc và chuẩn mực toàn cầu mà còn phải chịu trách nhiệm lớn hơn trong việc duy trì và hiện đại hóa trật tự quốc tế, vốn nhờ nó mà Trung Quốc đã phát triển rất ngoạn mục. Trong lãnh vực nào mà các quy tắc và chuẩn mực hiện tại không còn phù hợp với mục đích, Trung Quốc nên hợp tác với Hoa Kỳ và các quốc gia khác để đưa ra các thỏa thuận sửa đổi mà tất cả có thể chấp hành.

Con đường tạo ra một trật tự mới không đơn giản. Các áp lực mạnh mẽ trong nước đã thúc đẩy và kìm hãm các lựa chọn chính sách đối ngoại của cả hai quốc gia. Chính sách đối ngoại thường ít được đề cao trong chiến dịch tranh cử tổng thống hiện nay ở Hoa Kỳ, và nếu có chăng thì trọng tâm phổ biến chỉ là biến thể của chủ đề “Hoa Kỳ trước hết”. Ở Trung Quốc, ưu tiên hàng đầu của lãnh đạo là duy trì ổn định chính trị nội bộ và thể hiện sự tự tin của một nền văn minh cổ đại đang trỗi dậy trở lại, sau khi chịu đựng gần hai thế kỷ yếu hèn và nhục nhã. Vì vậy, ta không thể coi là chuyện đương nhiên, rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ quản lý các mối quan hệ song phương dựa trên các tính toán hợp lý về lợi ích quốc gia của họ hoặc thậm chí cùng mong muốn các kết quả có lợi cho cả đôi bên. Hai quốc gia này không nhất thiết phải tự đặt mình vào một tiến trình đối đầu, nhưng người ta không thể loại trừ khả năng đối đầu giữa hai nước.

TÍNH NĂNG ĐỘNG Ở CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG

Những động lực này sẽ diễn ra trên toàn thế giới, nhưng một đấu trường quan trọng sẽ là châu Á-Thái Bình Dương. Hoa Kỳ luôn có lợi ích quốc gia quan trọng trong khu vực này. Họ đã dùng máu và kho báu của mình để chiến đấu trong Chiến tranh Thái Bình Dương nhằm đánh bại Nhật Bản, một cuộc chiến mà Hoa Kỳ suýt mất ba vị tổng thống tương lai. Họ đã đánh hai cuộc chiến tranh tốn kém ở Triều Tiên và Việt Nam, hai cuộc chiến đã mang lại khoảng thời gian quý báu cho các nước không cộng sản ở châu Á củng cố xã hội và nền kinh tế của mình và giành được lòng dân trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản.

Các chính sách cởi mở, hào phóng của Hoa Kỳ đã mang lại lợi ích rất lớn cho châu Á-Thái Bình Dương bắt nguồn từ những lý tưởng chính trị sâu xa và hình ảnh tự thân của nó như “một thành phố trên một ngọn đồi” và “một ngọn đèn cho các quốc gia,” nhưng họ cũng phản ánh sự ích kỷ sáng suốt [enlightened self-interest] của mình. Một châu Á-Thái Bình Dương ổn định và thịnh vượng trước tiên là một thành phần chống lại các nước cộng sản trong thời Chiến tranh Lạnh và sau đó là một khu vực quan trọng của thế giới bao gồm nhiều quốc gia ổn định và thịnh vượng có thiện cảm với Hoa Kỳ. Đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ, châu Á-Thái Bình Dương cung cấp các thị trường lớn và cơ sở sản xuất quan trọng. Không có gì đáng ngạc nhiên, một số đồng minh trung thành nhất của Hoa Kỳ, chẳng hạn như Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và một số đối tác lâu dài của nó, chẳng hạn như Singapore, đều nằm tại châu Á.

Trung Quốc cũng có lợi ích sống còn trong khu vực. Ở Đông Bắc Á, Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên vẫn còn đổ bóng dài trong tâm thức người Trung Hoa. Ở Đông Nam Á, Trung Quốc nhìn thấy một nguồn năng lượng và nguyên liệu thô, các đối tác kinh tế và các tuyến đường biển quan trọng. Họ cũng thấy các điểm tắc nghẽn ở eo biển Malacca và Biển Đông phải luôn luôn được mở ra để bảo vệ an ninh năng lượng của Trung Quốc. Nhưng một điểm khác biệt quan trọng với Hoa Kỳ là Trung Quốc coi châu Á-Thái Bình Dương là “nước ngoài lân cận” [near abroad], xin  mượn cách diễn đạt của người Nga, và do đó rất cần thiết cho an ninh chính họ.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói rằng Thái Bình Dương đủ rộng để chứa cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc. Nhưng ông cũng nói rằng an ninh châu Á nên được dành cho người châu Á định đoạt. Một câu hỏi tự nhiên được đặt ra: Liệu Tập có nghĩ rằng Thái Bình Dương đủ lớn để Hoa Kỳ và Trung Quốc chung sống hòa bình, với những vòng bạn bè và đối tác trùng lặp lên nhau, hay nó đủ lớn để vạch đường phân chia giữa hai cường quốc, thành  các vùng ảnh hưởng của hai đối thủ? Singapore và các nước châu Á-Thái Bình Dương khác không có nghi ngờ gì về lời giải thích mà họ muốn nghe. Mặc dù họ có thể không có nhiều ảnh hưởng về cung cách mọi thứ sẽ diễn ra, nhưng họ hy vọng sẽ không bị buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Sự hiện diện an ninh của Hoa Kỳ vẫn còn quan trọng đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Không có nó, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ bị buộc phải dự tính phát triển vũ khí hạt nhân; cả hai đều là các quốc gia ở ngưỡng hạt nhân [nuclear threshhold states] và chủ đề đã thường xuyên xuất hiện trong các thảo luận công khai của họ, đặc biệt căn cứ vào khả năng vũ khí hạt nhân ngày càng tăng của Triều Tiên. Những phát triển như vậy rất may vẫn còn là giả thuyết, nhưng viễn cảnh của chúng không có lợi cho sự ổn định ở Đông Bắc Á cũng như các nỗ lực chống phổ biến vũ khí hạt nhân trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, Hạm đội thứ bảy của Hoa Kỳ đã đóng góp cho an ninh khu vực kể từ Thế chiến II, đảm bảo rằng các tuyến đường biển vẫn khai thông an toàn, điều này đã thúc đẩy thương mại và kích thích tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có sức mạnh quân sự ngày càng tăng, Trung Quốc sẽ không thể đảm nhận vai trò an ninh của Hoa Kỳ. Khác hẳn với Hoa Kỳ, Trung Quốc có các yêu sách cạnh tranh về hàng hải và lãnh thổ ở Biển Đông với một số quốc gia trong khu vực vốn luôn luôn coi sự hiện diện của hải quân Trung Quốc là một nỗ lực nhằm thúc đẩy các yêu sách đó.

Một trở ngại khác khiến Trung Quốc không thể đảm nhận vai trò an ninh mà Hoa Kỳ hiện đang nắm giữ phát sinh từ việc nhiều nước Đông Nam Á có các khối dân số gốc Hoa đáng kể, mà mối quan hệ của họ với đa số phi-Trung Hoa [non-Chinese] thường rất tế nhị. Các quốc gia này cực kỳ nhạy cảm về bất cứ nhận thức nào cho thấy rằng Trung Quốc có ảnh hưởng không nhỏ đối với thiểu số người Hoa sống tại nước họ — nhất là gợi lại lịch sử sự  hậu thuẫn của Trung Quốc đối với cuộc nổi dậy của phiến quân cộng sản ở Đông Nam Á cho đến đầu những năm 1980. Những nhạy cảm đó sẽ hạn chế vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề Đông Nam Á trong một tương lai tương đối gần.

Singapore là quốc gia Đông Nam Á duy nhất có dân số đa chủng trong đó người Hoa chiếm đa số. Trên thực tế, đây là quốc gia có chủ quyền duy nhất trên thế giới có một sự phân phối dân số như vậy ngoài chính Trung Quốc. Nhưng Singapore đã thực hiện những nỗ lực rất to lớn để xây dựng một bản sắc dân tộc đa sắc tộc chứ không phải là một bản sắc Trung Quốc. Và Singapore cũng hết sức cẩn thận để tránh làm bất cứ điều gì có thể bị hiểu lầm là cho phép mình được sử dụng như thứ tay sai ngu đần của Trung Quốc. Vì lý do này, mãi cho đến năm 1990 Singapore mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, khiến nước này trở thành quốc gia Đông Nam Á cuối cùng, ngoại trừ Brunei, đã làm như vậy.

Tất nhiên, Singapore và tất cả các nước châu Á khác muốn xây dựng quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Họ hy vọng sẽ tận hưởng thiện chí và sự hỗ trợ của một cường quốc quan trọng như vậy và tham gia vào sự phát triển của TQ. Chuỗi cung ứng toàn cầu — dù để làm máy bay, điện thoại di động hay mặt nạ phẫu thuật — liên kết Trung Quốc và các nước châu Á khác lại với nhau. Nội cái kích thước của Trung Quốc đã khiến TQ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các quốc gia châu Á khác, bao gồm mọi đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ trong khu vực, cũng như Singapore và gần như mọi quốc gia ASEAN khác.

Thật sẽ rất khó khăn, có thể nói gần như không thể, để Hoa Kỳ thay thế Trung Quốc làm nhà cung cấp chính của thế giới, cũng như người ta không thể tưởng tượng được việc Hoa Kỳ không cần đến thị trường Trung Quốc, nước nhập khẩu hàng hóa Mỹ lớn thứ ba, sau Canada và Mexico. Nhưng Trung Quốc cũng không thể thay thế vai trò kinh tế của Hoa Kỳ tại châu Á. Hệ thống tài chính toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào các định chế tài chính Mỹ và đồng Nhân dân tệ không thể thay thế đồng đô la Mỹ làm đồng tiền dự trữ của thế giới trong một sớm một chiều. Mặc dù các nước châu Á khác xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều hơn sang Hoa Kỳ, nhưng các tập đoàn đa quốc gia của Hoa Kỳ vẫn tạo thành nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nhiều nước châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả Singapore. Các công ty lớn của Trung Quốc đang bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng phải mất nhiều năm nữa Trung Quốc mới có được các tập đoàn đa quốc gia cùng quy mô và mức độ tinh vi như các công ty có trụ sở tại Hoa Kỳ, liên kết các chuỗi sản xuất toàn cầu lại với nhau, liên kết châu Á với nền kinh tế toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm.

Vì những lý do này, các nước châu Á – Thái Bình Dương không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Họ muốn vun đắp mối quan hệ tốt với cả hai. Họ không thể làm mất lòng Trung Quốc, và vì thế các nước châu Á khác sẽ cố gắng hết sức để không để bất cứ tranh chấp nào chi phối mối quan hệ chung với Bắc Kinh. Đồng thời, những quốc gia châu Á đó coi Hoa Kỳ là một cường quốc thường trú có lợi ích sống còn trong khu vực. Họ ủng hộ Hoa Kỳ — một số nước tỏ ra công khai hơn một số nước khác— khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố rằng Hoa Kỳ có ý định “tái quân bình” chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với châu Á. Họ tự an ủi rằng, mặc dù chính quyền Trump đã đưa ra các vấn đề về chi phí và chia sẻ gánh nặng với bạn bè và đồng minh, nhưng nó cũng đưa ra một chiến lược cho khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương và tuyên bố ý định xây dựng Bộ chỉ huy quân sự Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Nhưng những quốc gia châu Á này cũng nhìn nhận rằng Hoa Kỳ là một siêu cường toàn cầu, với những mối bận tâm xa rộng và những ưu tiên cấp bách trên toàn thế giới. Họ nhận ra thực tế là, nếu căng thẳng gia tăng — hoặc thậm chí tệ hơn, nếu xung đột xảy ra— họ không đương nhiên ỷ y vào sự hổ trợ của Hoa Kỳ. Họ chắc chắn sẽ làm bổn phận của mình để bảo vệ đất nước và lợi ích của họ. Họ cũng hy vọng Hoa Kỳ hiểu rằng nếu các quốc gia châu Á khác thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, điều đó không nhất thiết có nghĩa là họ đang ra tay chống lại Hoa Kỳ. (Và tất nhiên, các quốc gia châu Á này cũng hy vọng có được sự hiểu biết tương tự từ phía Trung Quốc, nếu họ tăng cường mối quan hệ với Hoa Kỳ.)

KIẾN TRÚC CÓ TÍNH KẾT NẠP TOÀN KHU VỰC 

Hoa Kỳ và Trung Quốc không phải là những nước lớn duy nhất có nhiều ảnh hưởng trong khu vực; những nước liên hệ khác cũng có vai trò quan trọng. Nhật Bản, đặc biệt, có nhiều đóng góp cho khu vực, với quy mô và mức độ tinh tế của nền kinh tế Nhật. Dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe, nó đã đóng góp tích cực hơn trước. Chẳng hạn, sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương [TPP] năm 2017, Nhật Bản đã bước lên vị trí lãnh đạo. Nhật thúc đẩy 11 thành viên còn lại hoàn thành Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một hiệp định kết hợp các nước phát triển và đang phát triển ở cả hai bên Thái Bình Dương và là một bước tiến tới thương mại tự do ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Ấn Độ cũng hưởng nhiều ảnh hưởng tiềm năng. Dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, Ấn Độ đã tuyên bố thay đổi chiến lược thông qua Chính sách Hành động hướng Đông [Act East Policy] và các quốc gia khác mong muốn nhìn thấy chính sách này biến thành hành động. Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á kết nạp Ấn Độ làm thành viên vì các thành viên khác hy vọng rằng khi nền kinh tế Ấn Độ phát triển, New Delhi sẽ nhận ra nhiều giá trị hơn trong hợp tác khu vực. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia ban đầu đàm phán để hình thành Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực [the Regional Comprehensive Economic Partnership, viết tắt RCEP], một hiệp định thương mại tự do được đề xuất nhằm mục đích hợp nhất tất cả các nền kinh tế lớn ở châu Á-Thái Bình Dương, tương tự như Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (hiện nay là Hiệp định Mỹ-Mexico-Canada) đang liên kết các quốc gia Bắc Mỹ. Sau các cuộc đàm phán rộng rãi, Ấn Độ năm ngoái đã quyết định không tham gia RCEP; 15 quốc gia tham gia còn lại đang tiếp tục đi tới, mặc dù không có Ấn Độ, một cái gì đó quan trọng đã bị mất đi.

Như hầu hết các nước châu Á nhận ra, giá trị của các thỏa ước này vượt lên trên các thành quả kinh tế mà chúng tạo ra. Chúng là những nền tảng cho phép các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương hợp tác với nhau, phát triển phần đóng góp cho sự thành công của nhau và cùng nhau hình thành kiến trúc khu vực và các quy tắc chi phối nó. Những dàn xếp khu vực như vậy phải có tính cách thông thoáng và bao gồm nhiều thành viên. Dù theo thiết kế hay do hậu quả, chúng không được loại bỏ bất cứ nước nào, làm suy yếu các thỏa thuận hợp tác hiện có, tạo ra các khối đối thủ [rival blocs] hoặc buộc các quốc gia phải chọn phe phái. Đây là lý do tại sao các thành viên CPTPP đã bỏ ngõ cánh cửa cho Hoa Kỳ đăng nhập trở lại và tại sao các quốc gia đang làm việc để thành lập RCEP vẫn hy vọng rằng Ấn Độ sẽ gia nhập một ngày nào đó trong tương lai.

Đây cũng là cơ sở để các nước châu Á – Thái Bình Dương hổ trợ các sáng kiến hợp tác khu vực như các khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương khác nhau do Nhật Bản, Hoa Kỳ và các quốc gia khác đưa ra, cũng như Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Nhiều quốc gia châu Á khác coi việc ủng hộ Sáng kiến Vành đai và Con đường như một đường lối xây dựng nhằm đáp ứng ảnh hưởng ngày càng to lớn của Trung Quốc trong khu vực. Nếu được thực hiện tốt đẹp và có kỷ luật tài chính, các dự án của sáng kiến này có thể tăng cường hợp tác khu vực và đa phương và giải quyết nhu cầu cấp thiết về cơ sở hạ tầng và sự kết nối tốt hơn giữa nhiều nước đang phát triển. Một số dự án như vậy đã bị chỉ trích vì thiếu minh bạch hoặc tính khả thi, nhưng không có lý do gì để cho rằng tất cả các dự án của sáng kiến này, theo định nghĩa, sẽ áp đặt gánh nặng tài chính không thể chịu đựng lên các quốc gia hoặc ngăn cản chúng phát triển sự liên kết với các nền kinh tế lớn khác. Những hậu quả như vậy cũng sẽ không phục vụ lợi ích của Trung Quốc, vì chúng sẽ làm suy yếu vị thế và ảnh hưởng quốc tế của cường quốc này.

Phát triển các thỏa thuận khu vực mới không có nghĩa là từ bỏ hoặc đứng ngoài các định chế đa phương hiện có. Các tổ chức và định chế đa phương khó giành được này tiếp tục mang đến cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nhỏ hơn, một khuôn khổ để làm việc cùng nhau và thúc đẩy lợi ích tập thể của họ. Nhưng nhiều định chế đa phương hiện tại đang khẩn cấp cần cải tổ: chúng không còn hiệu quả, do các thực tế kinh tế và chiến lược hiện tại. Chẳng hạn, kể từ khi kết thúc Vòng đàm phán thương mại Uruguay năm 1994, WTO ngày càng gặp khó khăn trong việc đạt được các hiệp định thương mại có ý nghĩa, bởi vì bất kỳ thỏa thuận nào cũng cần có sự đồng thuận của 164 thành viên, vốn có lợi ích và triết lý kinh tế rất khác nhau. Và kể từ năm ngoái, Cơ quan phúc thẩm của WTO đã bị tê liệt do thiếu một túc số tối thiểu [a quorum]. Đây là một mất mát cho tất cả các quốc gia — lẽ ra họ cần phải hoạt động một cách xây dựng nhằm cải tổ các tổ chức đó thay vì làm giảm hiệu quả của chúng hoặc bỏ qua chúng hoàn toàn.

MỘT HY VỌNG THIẾT THA 

Các lựa chọn chiến lược mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đưa ra sẽ định hình các đường nét chính của trật tự toàn cầu đang dần dần xuất hiện. Đó là điều tự nhiên đối với các cường quốc cạnh tranh. Nhưng chính khả năng hợp tác của họ mới là phép thử thực sự của tài trị quốc [statecraft] và nó sẽ quyết định là loài người có tiến bộ về các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phổ biến hạt nhân và sự lây lan các bệnh truyền nhiễm hay không.

Đại dịch COVID-19 là một lời nhắc nhở rõ ràng về tầm quan trọng của việc các quốc gia hợp tác với nhau. Các bệnh tật không hề tôn trọng biên giới quốc gia, và vì thế hợp tác quốc tế là hết sức cần thiết để đưa đại dịch vào tầm kiểm soát và giảm thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả nếu có các mối quan hệ tốt nhất giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, việc đưa ra một phản ứng tập thể đối với COVID-19 cũng đã là rất khó khăn. Thật không may, đại dịch đang làm tồi tệ thêm sự cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, làm tăng sự ngờ vực, sự đề cao mình để chà đạp đối phương [one-upmanship], và đổ lỗi cho nhau. Điều này chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu đại dịch trở thành một vấn đề lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ — bây giờ điều này dường như không thể tránh khỏi. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng sự nghiêm trọng của tình hình sẽ tập trung tâm trí của con người và cho phép các khuyến nghị khôn ngoan thắng thế.

Trong khi đó, các nước châu Á đang hết sức bận rộn, đương đầu với đại dịch và nhiều trở ngại khác để cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra một khu vực an toàn và thịnh vượng hơn. Thành công của họ — và triển vọng của một thế kỷ châu Á — sẽ phụ thuộc rất lớn vào việc liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể vượt qua sự khác biệt của họ, xây dựng tin tưởng lẫn nhau và làm việc một cách xây dựng để duy trì trật tự quốc tế ổn định và hòa bình hay không. Đây là một vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta.

Tác giả: Lý Hiển Long
Dịch giả: Trần Ngọc Cư

27 June 2020

Những cuộc xâm lăng mềm (Điểm sách sách Hidden Hand của Clive Hamilton và Mareike Ohlberg)


 GS Nguyễn Văn Tuấn
Hai tác giả Clive Hamilton và Mareike Ohlberg mới xuất bản một cuốn sách nhan đề "Hidden Hand" (Giấu tay). Cuốn sách là một công trình sưu khảo công phu về những cuộc xâm lăng và khuynh đảo của Trung Cộng vào hệ thống chánh trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, và truyền thông ở các nước phương Tây. Có thể xem đó là cuộc xâm lăng mềm, với tiền là phương tiện chánh. Đây là một cuốn sách hết sức thú vị, cung cấp rất nhiều thông tin mang tính mở mắt cho những ai quan tâm đến thời cuộc và sự ảnh hưởng của Trung Cộng trên trường quốc tế, kể cả Việt Nam. Bài điểm sách này sẽ điểm qua những nội dung chánh, và chia sẻ vài thông điệp chánh trong cuốn sách.
Dân biểu Shaoquett Moselmane
Ở Úc, tuần vừa qua xảy ra một biến cố chánh trị làm cho cuốn sách này trở nên tâm điểm của thời cuộc. Một Dân biểu Úc tên Shaoquett Moselmane (gốc Lebanon) bị cảnh sát xét nhà riêng sau một thời gian bị cơ quan tình báo Úc ASIO điều tra về những mối liên hệ giữa ông với Đảng Cộng sản Trung Cộng. Ông dân biểu đã là đối tượng được báo chí theo dõi về mối liên hệ giữa ông và Đảng Cộng sản Trung Cộng. Từ năm 2018, ông và người phụ tá là John Zhang (gốc Tàu) có những phát biểu ủng hộ nhà cầm quyền Trung Cộng và chỉ trích những chánh sách cứng rắn của Úc đối với Trung Cộng. dân biểu Shaoquett Moselmane

Báo chí Úc cho biết nếu chứng cớ từ cuộc điều tra đầy đủ, ông dân biểu này có thể bị truy tố ra toà về tội giúp cho thế lực nước ngoài can thiệp vào chánh trường Úc. Nếu bị truy tố thì đây là trường hợp đầu tiên về trên thế giới về sự can thiệp của nước ngoài vào chánh trường địa phương. Những gì diễn ra trong trường hợp của vị dân biểu này có thể nói là rất phù hợp với những chiến lược gây ảnh hưởng của Trung Cộng trong các thể chế dân chủ ở phương Tây.

Chiến tranh Lạnh

Từ điển tiếng Anh định nghĩa Hidden Hand là thế lực gây ra những tác động tiêu cực. Hidden Hand cũng có thể hiểu là những người ở vào vị trí quyền lực cao nhứt nhưng giấu mặt. Hidden Hand cũng có thể là một hội ái hữu kiểm soát một mạng hội kín, và những hội kín này thực hiện những mệnh lệnh của thế lực cấp trên. Thường, những người thực hiện mệnh lệnh không biết ai là người ra lệnh.

Có lẽ mượn ý nghĩa đó, nên hai tác giả Clive Hamilton và Mareike Ohlberg (H&O) đặt tựa đề cho cuốn sách mới là Hidden Hand [1] để mô tả những hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Cộng (CCP) nhằm lũng đoạn chánh trường phương Tây và thiết lập một trật tự thế giới mới theo ý tưởng của những kẻ điều hành CCP, mà người đứng đầu hiện nay là Tập Cận Bình.

Tại sao Hidden Hand? Thật ra, đây là cuốn sách nối tiếp cuốn Silent Invasion (Cuộc xâm lăng thầm lặng) công bố vào năm 2017 mà tôi có điểm sách [2]. Silent Invasion viết về những chiêu trò xâm lăng vào Úc của CCP, còn Hidden Hand thì viết về cuộc xâm lăng của CCP vào các nước phương Tây. Cuộc xâm lăng này diễn ra trên tất cả lãnh vực, từ chánh trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, gián điệp, đến văn hoá.

Cứ mỗi lần Mỹ hay Úc nêu những hành động hung hãn của Trung Cộng ở Biển Đông (hay bất cứ nơi nào trên thế giới), thì phía Trung Cộng đều cho viên phát ngôn than phiền rằng Mỹ dùng ngôn ngữ thời Chiến tranh Lạnh, là khơi dậy chủ nghĩa McCarthy. Mới đây, trong lúc mối quan hệ ngoại giao giữa Úc và Trung Cộng hơi căng thẳng, viên phát ngôn Tàu cũng nói rằng Úc hành xử như thời Chiến tranh Lạnh.

Ngoài miệng thì than phiền như thế, nhưng về thực chất thì Trung Cộng đã thực hiện Chiến tranh Lạnh từ … 30 năm trước. Theo H&O, Trung Cộng sau thời chế độ Xô Viết sụp đổ tự xem mình bị vây hãm bởi các kẻ thù, và những kẻ thù này cần bị đánh bại và vô hiệu hoá. Để đánh bại kẻ thù, CCP đã phát động một cuộc Chiến tranh Lạnh từ thập niên 1990!

Trong Lời nói đầu, tác giả cho biết nhiều người trong giới trí thức ở phương Tây đánh giá thấp hay bác bỏ sự đe doạ của Trung Cộng đối với nền dân chủ phương Tây. Hai tác giả cho rằng đó chính là lí do tại sao họ viết Hidden Hand. Nói cách khác, tác giả muốn 'giáo dục' những ai còn ngây thơ với mối đe doạ từ Trung Cộng.

Sách bao gồm 13 chương, bàn những vấn đề về sự vận hành và tổ chức của CCP, cách thức mà nó tranh thủ vận động trong và ngoài nước qua mạng lưới công an và gián điệp, các biện pháp kiểm soát hệ thống truyền thông, các chương trình lũng đoạn thông tin ở phương Tây, và ý tưởng thay đổi trật tự thế giới. Nội dung chánh của sách chỉ chừng 270 trang, nhưng phần tham khảo và bị chú chiếm 130 trang, chứng tỏ tác giả đã đầu tư rất nhiều công sức và thời giờ vào việc soạn thảo cuốn sách.

CCP và những người bạn

CCP đã xây dựng hẳn một mạng lưới ảnh hưởng trên đất Mỹ từ thập niên 1970. Họ có khả năng và đã mua chuộc rất nhiều kí giả, nhà khoa học, học giả, thậm chí chánh trị gia và những nhà vận động làm việc cho họ. Cả Joe Biden và Donald Trump đều xem mình là "bạn" của Tập Cận Bình. Dưới thời Obama, Mỹ đã đứng khoanh tay nhìn Trung Cộng xây dựng những công trình quân sự trên Biển Đông, vì Obama cũng đánh giá thấp mối đe doạ của Trung Cộng. John Bloomberg, ứng cử viên Phó tổng thống Mỹ, cũng có thể xem là một người bạn thân của Tập. Chẳng những các chánh khách, mà gia đình của họ (như gia đình của Donald Trump, con rể Jared Kushner và con gái Ivanka Trump) cũng là bạn thương mại với Trung Cộng. Trung Cộng đã có những người bạn như thế giúp cho họ đạt được những mục tiêu dài hạn.

Nhưng đừng tưởng rằng Trung Cộng xem mọi người bạn như nhau. Đối với CCP, cái gì cũng được phân nhóm, và bạn bè cũng được phân nhóm. Phân nhóm để có chánh sách đối phó và đối xử. Đối với người ngoại quốc, CCP chia thành 4 nhóm như sau:

· Nhóm 1 là những người bạn. Đây là những người đồng ý với và ủng hộ chủ trương của CCP hết mình. Họ thường được trích dẫn trên hệ thống truyền thông của TC;

· Nhóm 2 là những người bạn có thể tin được. Họ thường là những người trong giới doanh nhân mà CCP có thể dựa dẫm vào, nhưng không thể tin tưởng;

· Nhóm 3 là những học giả và giới kí giả. Đây là những người yêu Trung Cộng, nhưng biết rõ những chiêu trò xấu và bẩn của cộng sản và CCP;

· Nhóm 4 là 'kẻ thù'. Đây là những người yêu Trung Hoa và văn minh Trung Hoa, nhưng ghét cộng sản. Đây là những kẻ mà CCP sẵn sàng bôi nhọ mỗi khi có dịp;

· Nhóm 5 là 'thờ ơ'. Đây là những người không biết và không cần biết về Trung Cộng. Trong cái nhìn của CCP, đây là những người có ích và có thể gây ảnh hưởng bằng cách mời họ xuất hiện trong các dịp lễ lạt để tạo ra ấn tượng tốt.

Trong một chương viết về cách CCP lũng đoạn các quan chức ngoại giao nước ngoài, H&O cho biết các Đại sứ khi mới tới Trung Cộng, họ trước hết bị 'cách li' với các nhân vật cao cấp trong CCP. Sau đó một thời gian, họ sẽ nhận được tin nhắn rằng một quan chức cao cấp trong CCP muốn gặp họ. Mục tiêu là làm cho người được mời đến gặp cảm thấy mình 'đặc biệt', được tin cẩn, và có thể tiếp cận những thông tin mà người khác không có. Tuy nhiên, đó chỉ là một chiêu trò tâm lí để khai thác đối phương!

Khi cần đe doạ, Trung Cộng dùng ngôn ngữ mơ hồ, mù mờ, để cho đối tượng tha hồ đoán. Thật ra, đây là một chiêu trò của người cộng sản Tàu, vì sự mơ hồ có tác dụng gây sợ hãi nhiều người, và ai cũng có thể là những kẻ thù của chế độ.

 Đảng và doanh nghiệp: hôn phối chánh trị

Trong chế độ Trung Cộng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đảng là một cuộc hôn phối chánh trị. Mối liên hệ giữa các cán bộ cao cấp trong đảng và doanh nghiệp diễn ra 2 chiều: cá nhân và chánh trị. Các cán bộ cao cấp trong đảng hoặc gia đình của họ đều đứng đằng sau hay có quyền lợi tài chánh với doanh nghiệp, và họ hưởng lợi từ doanh nghiệp. Trong mỗi doanh nghiệp cấp trung và lớn đều có chi bộ của CCP, và chi bộ chính là nhóm người định hướng, thậm chí điều hành, doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có cán bộ của đảng 'bảo trợ' thường làm ăn khấm khá, và họ được ưu tiên nhiều lãnh vực, kể cả đóng thuế ít hơn các công ti ngoài đảng. Công cuộc chống tham nhũng mà Tập Cận Bình phát động thật ra chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể đến các doanh nghiệp do CCP bảo trợ.

Có thể nói tất cả các nhân vật đứng đầu các tập đoàn lớn (như Alibaba, Baidu, Huawei, Tencent, v.v.) đều là đảng viên của CCP hay tỏ lòng trung thành tuyệt đối với CCP. Richard Liu (được xem là một Jeff Bezos của Trung Cộng) từng nói rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thành hiện thực trong thế hệ này. Xu Jiayin, một đại gia bất động sản tuyên bố rằng "tất cả những gì tập đoàn sở hữu là do Đảng cho". Đại gia kĩ nghệ nặng Liang Wengen thì cảm tính hơn khi nói "cuộc đời của tôi thuộc về Đảng".

Trong quan hệ doanh nghiệp nước ngoài, CCP còn cài đặt người vào các thiết chế kinh tế của Mỹ và Âu châu. Một trong những thiết chế mà CCP nhắm tới để gây ảnh hưởng là Wall Street. Trong chuyến viếng thăm Mỹ, Thủ tướng Trung Cộng không tới Washington trước, mà đến New York, nơi mà ông có những cuộc hội kiến bận rộn với các nhân vật trong hệ thống tài chánh Mỹ. Những sếp của các tập đoàn lớn như JP Morgan, Merrill Lynch, Morgan Stanley, Dow Jones, Goldman Sachs, Citigroup, Bank of America, v.v. đều được tiếp đón trọng thị. Sau lần tiếp đón là hàng loạt hợp đồng thương mại trị giá tỉ USD được kí kết.

Nhưng CCP còn nghĩ đến thế hệ tương lai, và các thiết chế tài chánh Mỹ là mục tiêu. Câu lạc bộ công tử và tiểu thơ (princelings) là một nhóm trong chương trình này. Chẳng hạn như tập đoàn JP Morgan có một chương trình có tên là "Sons and Daughters Program" (nhưng các tập đoàn Mỹ lớn đều có những chương trình tương tợ) nhằm nâng đỡ các con cháu của các cán bộ cộng sản cao cấp từ Trung Cộng. Chẳng hạn như Goldman Sachs chỉ riêng năm 2013 đã có 25 con cháu cộng sản, trong đó có cả cháu nội của Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Merrill Lynch và Citigroup cũng có nhiều nhân viên là các công tử và tiểu thơ của CCP, kể cả con dâu của Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang). Morgan Stanley thì mướn con trai của Chu Dung Cơ (Zhu Rongji) và con gái của Chủ tịch Ngân hàng Phát Triển Chen Yuan. Đây là những công tử và tiểu thơ đã hoặc đang theo học tại các trường hàng đầu của Mỹ. Có thể nói [chương trình] "Sons and Daughters Program" hoặc tương tợ là nơi ươm mầm cho thế hệ elite tài chánh tương lai của Trung Cộng.

Hoa kiều vụ

Hiện nay, có khoảng 50 đến 60 triệu Hoa kiều ở nước ngoài. CCP xem đây là một nguồn lực rất quan trọng trong chiến lược ảnh hưởng thế giới. Trong 3 thập niên qua, Trung Cộng đã có nhiều biện pháp và chương trình nhằm kéo những Hoa kiều về 'đất mẹ' bằng cách này hay cách khác. Một trong những tổ chức quan trọng nhứt của CCP là "Mặt trận Đoàn kết" (United Front), với nhiệm vụ chánh là quản lí Hoa kiều và cái mà họ gọi là "qiaowu" (Hoa kiều vụ). Hai cơ quan phụ trách việc hiện các chánh sách là Cục Người Hoa ở Nước Ngoài, viết tắt là OCAO (rất giống với "Uỷ ban Người Việt ở nước ngoài" của Việt Nam). Tuy nhiên, mạng lưới tổ chức thì phức tạp hơn nhiều so với những gì tôi mô tả (có thể xem trang 124-125 để thấy sơ đồ tổ chức nhằm khuynh đảo Hoa kiều).

Một số trong cộng đồng Hoa kiều ở nước ngoài trở thành không chỉ là những tiếng nói của CCP, mà còn một lực lượng đe doạ những ai dám thách thức sự đàn áp của Trung Cộng. Những thành viên của Pháp Luân Công bị sách nhiễu và đe doạ bởi những "Hoa kiều" ở New York là một ví dụ. Sinh viên gốc Duy Ngô Nhĩ nói về sự tàn ác của CCP cũng bị sinh viên Trung Cộng đe doạ. Một số Hoa kiều 'độc lập' (tức không dính dáng gì đến CCP) cũng bị đe doạ và cô lập. Ở Đức, sự lộng hành của các Hoa kiều thân Cộng nghiêm trọng đến nỗi có Hoa kiều độc lập cho rằng họ xem Đức như là một sân vườn của Đảng Cộng sản Trung Cộng!

Một chiến lược của CCP là khuyến khích và hỗ trợ cho Hoa kiều tham chánh trong chánh trường địa phương, họ gọi chương trình này là "huaren canzheng" (Hoa kiều tham chánh). Qua chương trình này, CCP giới thiệu những ứng viên gốc Hoa nhưng thân Cộng (dĩ nhiên) ra ứng cử cấp địa phương, bang, và thậm chí liên bang. Họ đã thành công đưa Hoa kiều vào những vị trí quan trọng ở Anh, Úc, và vài địa phương ở Mỹ.

Mạng lưới gián điệp: phi chánh thống

Các trung tâm gián điệp phương Tây thường chỉ tập trung vào những việc như đánh cắp tài liệu mật của chánh phủ và quân sự, bằng cách tuyển mộ những điệp viên hay cài điệp viên vào chánh phủ và cơ quan quân sự. Nhưng hoạt động gián điệp của Trung Cộng vượt ra ngoài biên giới truyền thống đó và bao gồm luôn cả đánh cắp thông tin mật từ các công ty kỹ nghệ, tập đoàn kinh tế, và cả tổ chức dân sự.

Hệ thống tổ chức gián điệp và tình báo của Trung Cộng phức tạp hơn nhiều so với các chánh phủ phương Tây. Ở cấp trung ương có 2 cơ quan tình báo quan trọng là Tổng cục I (trực thuộc Bộ Công an) và Tổng cục II (còn gọi là 2PLA, thuộc Bộ Quốc phòng). Tổng cục I về chức năng thì tương đương với CIA và FBI cộng lại, nhưng còn có quyền lực chánh trị. Tổng cục II dùng nhà báo, học giả, và nhà ngoại giao làm bề mặt để hoạt động, và cũng có quyền lực chánh trị. Ngoài hai cục đó, Trung Cộng còn có những Cục khác như Cục 10 (lo các vấn đề ở nước ngoài), Cục 11 (liên quan đến các 'think tank', viện nghiên cứu), Cục 12 (lo về các vấn đề xã hội), v.v. Theo FBI, chỉ riêng Cục 12 đã thành lập hơn 3000 công ti làm bình phong cho những hoạt động gián điệp trên thế giới.

Các 'ổ' gián điệp Trung Cộng không chỉ tuyển dụng người trong nước, mà còn tuyển dụng người nước ngoài và áp dụng các thủ thuật tâm lí để gây áp lực đến nạn nhân. Vào thập niên 1990, cẩm nang của MI5 (cơ quan tình báo Anh) dành cho các doanh nhân làm ăn ở Trung Cộng có cảnh báo rằng không nên nhận những món quà quá mức, và cảnh giác với những lời tâng bốc tận mây xanh. Chiến thuật của tình báo Trung Cộng là làm cho nạn nhân mang nợ bằng những món đắt tiền hay mỹ nhân kế, để nạn nhân tự cảm thấy có nghĩa vụ phải đáp nghĩa. Hình thức đáp nghĩa có thể đưa nạn nhân vào vòng tay của các ổ gián điệp Trung Cộng.

Cục tình báo Úc (ASIO) cũng hay cảnh báo giới ngoại giao và doanh nhân Úc về những chiêu trò theo dõi của an ninh Trung Cộng. ASIO khuyên tất cả các thành viên trong đoàn không dùng charger điện thoại của khách sạn, không dùng bất cứ USB nào được cho làm quà, không bao giờ để máy tính cá nhân trong phòng khách sạn, v.v. Một hình thức hăm doạ khác là meinren ji, dùng hình ảnh của nạn nhân trong những tình huống khó xử (có khi là hình ảnh ghép, sửa) làm cho nạn nhân rơi vào vòng kìm toả của gián điệp Trung Cộng.

Truyền thông: "Họ của chúng tôi là Đảng"

Chương 9 của cuốn sách là một trong những chương thú vị, vì trong đó tác giả bàn về hệ thống truyền thông của CCP. Đây là chương 'mở mắt' cho nhiều người phương Tây, nhưng có lẽ chẳng làm ngạc nhiên ai đã quen với sự kiểm soát hệ thống truyền thông của đảng cộng sản. Nói ngắn gọn và ví von, tất cả nhà báo Trung Cộng chỉ có 1 họ duy nhứt: Đảng.

Ai cũng biết CCP kiểm soát hệ thống truyền thông một cách toàn diện, không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Sự trung thành của giới báo chí đối với CCP là tuyệt đối. Ban Tư tưởng của CCP thường xuyên gởi chỉ thị cho tất cả các báo và đài mỗi tuần, hướng dẫn vấn đề gì cần được đề cập và đề cập như thế nào, ai cần được nhắc đến hay không nên nhắc đến, và hệ thống phải tuân thủ tuyệt đối; họ không có lựa chọn.

Nếu hệ thống truyền thông không tuân thủ, thì họ sẽ bị phạt. Hình phạt có thể chỉ là cảnh cáo, nhưng cũng có khi cả 'sanh mạng chánh trị'. Chẳng hạn như năm 2015, 4 kí giả Trung Cộng bị phạt vì họ đánh vần sai vài chữ trong bài diễn văn của Tập Cận Bình làm cho người đọc hiểu rằng Tập Cận Bình sắp từ chức. Trong cùng năm, một kí giả chuyên về tài chánh bị bắt vì anh ta công bố những con số thật (nhưng đối với CCP thì đó là những thông tin nguỵ tạo).

Ngay từ 1955, Mao Trạch Đông đã huấn thị cho Tân Hoa Xã rằng phải "quản lý toàn cầu", và phải "làm cho cả thế giới nghe tiếng nói của Trung Cộng". Thời của Mao thì Tân Hoa Xã tập trung vào việc tuyên truyền ở Á châu và Phi châu, nhưng dưới thời Tập Cận Bình thì cánh tay của Tân Hoa Xã vươn ra Âu châu và Mỹ châu. Tính từ năm 2009 đến nay, Tân Hoa Xã đã có 180 văn phòng ngoài Trung Cộng, với tổng hành dinh vùng đặt ở New York, Brussels, Hồng Kong, Moscow, Cairo, Vạn Tượng (Lào), và Mexico City. Từ 2010, Tân Hoa Xã có hẳn một kênh CNC World (cạnh tranh với CNN?) truyền tin bằng tiếng Anh đến thế giới.

Ngoài Tân Hoa Xã, Trung Cộng còn có tờ nhựt báo China Daily (tiếng Anh). China Daily được thành lập vào năm 1981, với sự giúp đỡ của nhựt báo The Age của Úc và tài trợ từ Chánh phủ Úc. Tờ China Daily nhận chỉ thị từ CCP qua Cục Thông tin Quốc gia để quảng bá quan điểm của CCP và thông tin từ Trung Cộng đến thế giới.

CCP còn tích cực huấn luyện ký giả từ các nước đang phát triển. Theo "Reporters without Orders" hàng vạn ký giả từ các nước nghèo (như Việt Nam) được Tân Hoa Xã tài trợ để tham dự các lớp tập huấn do Ban Tư tưởng của CCP tổ chức. Những ký giả này sẽ là những "sứ giả" cho CCP và qua đó phát huy 'quyền lực mềm' của Trung Cộng.

Một chiến lược truyền thông khác của Trung Cộng có tên là "Mua tàu đi biển" (Buying a boat to sail the sea). Theo chiến lược này, Trung Cộng tung tiền ra mua cổ phần những tập đoàn truyền thông nổi tiếng ở phương Tây. Nếu mua không được, họ áp dụng chiến lược "Mượn tàu đi biển" ("borrowing a boat to sail the sea"), mà theo đó, Trung Cộng thương lượng với các tập đoàn truyền thông nổi tiếng ở phương Tây (như New York Times, Wall Street Journal, Washington Post, Daily Telegraph, Sydney Morning Herald, Le Figaro, El Pais) để thêm một phụ trương có tên là "China Watch" do China Daily sản xuất. Ngay cả tập san khoa học lừng danh Nature cũng có phụ trương chỉ dành cho Trung Cộng.

Trong khi Trung Cộng nâng cao nỗ lực quảng bá quan điểm của CCP ra nước ngoài, thì cái cơ chế này lại hạn chế, thậm chí ngăn chận, luồng thông tin từ ngoài vào Trung Cộng. Từ năm 2009 Trung Cộng đã chặn hầu hết các mạng xã hội từ phương Tây (như facebook, google, twitter). Chỉ có mạng LinkedIn của Microsoft thì không bị chặn vì LinkedIn sẵn sàng theo đường lối hay làm theo chỉ thị của CCP.

Nhưng CCP lại dùng mạng xã hội phương Tây để quảng bá các tin giả (fake news). Theo H&O, Trung Cộng có hẳn một đội quân dư luận viên (có tên là "Đảng 50 xu" hay "50 cent Party) vốn là những nhân viên trong hệ thống chánh quyền của Trung Cộng. Đội quân dư luận viên này chỉ có một nhiệm vụ duy nhứt là tung tin giả, đe doạ, và khủng bố những người nào có quan điểm khác với CCP. Mỗi năm, đội dư luận viên này tung ra 450 triệu bình luận trên các mạng xã hội phương Tây, với đa số là nguỵ biện và chửi bới, hay nói chung là 'misinformation'. Đối tượng của họ là Đài Loan, Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Năm 2019, Twitter phải khoá hơn 1000 tài khoản, và sau đó hơn 200,000 tài khoản mà họ nghi là do nhà nước Trung Cộng bảo trợ.

Chánh trị hoá văn hoá

Đối với CCP, văn hoá là một mặt trận, nên Trung Cộng rất quan tâm đến việc chánh trị hoá văn hoá. Tập Cận Bình không giấu diếm gì khi muốn CCP là chủ nhân, là bảo hộ nhân văn hoá Trung Hoa. Đảng Cộng sản tự cho mình cái quyền phán xét cái nào là văn hoá chánh thống, và cái nào không phải là văn hoá Trung Cộng. Một ví dụ tiêu biểu là áo sẩm (qipao hay cheongsam) vốn được xem là trang phục truyền thống của phụ nữ Trung Hoa, nhưng thật ra nó có nguồn gốc từ Mãn Châu và được phụ nữ Trung Hoa mặc lần đầu vào những năm 1910. Trong thời Mao, áo sẩm được xem là trang phục của giới tư sản, nhưng gần đây thì nó được xem là một biểu tượng văn hoá của Trung Cộng. Và, CCP nhứt định giành quyền quảng bá áo sẩm, không có bất cứ một tổ chức tư nhân nào liên quan.

Dĩ nhiên, trong một xã hội mà CCP kiểm soát tất cả lãnh vực, thì văn học cũng không thể thoát khỏi vòng kìm toả. Một ví dụ tiêu biểu là chủ trương và tầm nhìn của Hội Nhà văn Trung Cộng. Hội này tuyên bố nhiệm vụ số 1 là "tổ chức các nhà văn học tập về chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng của Mao Trạch Đông, và lí thuyết của Đặng Tiểu Bình, và học tập đường lối chánh sách của đảng." Thỉnh thoảng cũng có nhà văn tự trọng xin ra khỏi Hội, nhưng đa số nhà văn thì muốn lưu lại trong Hội để hưởng phước lợi và có dịp đi nước ngoài để 'giao lưu' cùng các đồng nghiệp phương Tây.

Năm 2011, CCP lưu hành một tài liệu nhan đề "Culture Going Global", mà trong đó họ vạch ra những chiến lược để quảng bá văn hoá Trung Cộng đến thế giới, và CCP muốn dùng văn hoá để kết nối tất cả Hoa kiều ở nước ngoài. Một tập đoàn có tên là "Poly Culture" được ra đời vào năm 2000, và nhanh chóng trở thành một 'thương hiệu' trong giới elite phương Tây. Theo đánh giá của các chuyên gia phân tích, Poly Culture có giá trị 140 tỉ USD. Poly Culture còn là sân chơi của các công tử và tiểu thơ đỏ, là con cháu của các cán bộ thượng tầng trong CCP.

Hoạt động của Poly Culture rất đa dạng. Họ tổ chức hàng loạt chương trình hoà nhạc tại các hý viện lừng danh nhứt và lớn nhứt ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha, v.v. Họ bảo trợ các cuộc triển lãm tranh ảnh về Trung Cộng, và thiết lập các viện bảo tàng quảng bá văn hoá Trung Cộng tại các nước phương Tây. Nhưng thay vì hoạt động văn hoá thuần tuý như là một phương tiện ngoại giao, thì Poly Culture lại đem chánh trị vào văn hoá và gây áp lực lên những nhóm mà họ bảo trợ. Ở Canada và Âu châu, họ ép buộc ban tổ chức triển lãm không được dùng hình ảnh của Pháp Luân Công, và những hình ảnh mà họ xem là có yếu tố chánh trị. Thế nhưng trớ trêu thay, họ lại chánh trị hoá triển lãm bằng những hình ảnh của Tập Cận Bình!

Khoa học và công nghệ

Có lẽ lãnh vực khoa học và công nghệ là món mà CCP thèm thuồng nhứt. Điều này cũng dễ hiểu, vì để hiện đại hoá đất nước, Trung Cộng cần đến nhân tài "knowhow" về khoa học và công nghệ. Để thu hút nhân tài, CCP đề ra kế sách "Ngàn Nhân tài" (Thousand Talents Plan). Theo kế sách TTP, nhà khoa học sẽ được cung cấp tài trợ và cơ sở vật chất để làm nghiên cứu tại Trung Cộng. Số tiền tài trợ rất hấp dẫn, và dễ làm xiêu lòng những nhà khoa học đang bị khó khăn về tài trợ ở các nước phương Tây. Do đó, Trung Cộng đã thu hút hàng vạn nhân tài từ các nước phương Tây. Đa số những người tài này là các nhà khoa học gốc Hoa, nhưng chương trình Thousand Talents Plan còn tuyển cả giới khoa học không phân biệt quốc tịch.

Không chỉ tuyển dụng nhân tài về Trung Cộng, CCP còn tích cực đánh cắp kỹ thuật và dữ liệu khoa học từ các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Ỡ Mỹ, có khá nhiều nhà khoa học gốc Hoa, và một số giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống khoa học. Chẳng hạn như Bộ Năng lượng (Department of Energy) có đến 35,000 nhà khoa học nước ngoài đang làm việc tại các trung tâm nghiên cứu (kể cả nghiên cứu về vũ khí), và trong số này có chừng 10,000 người gốc Hoa hay từ Trung Cộng. Qua các chương trình giao lưu, CCP dùng các nhà khoa học gốc Hoa ở Mỹ để thu thập dữ liệu khoa học đem về Trung Cộng.

Một số nhà khoa học đã trở thành nạn nhân của 'chương trình' đánh cắp khoa học này. Năm ngoái, trung tâm nghiên cứu và điều trị ung thư MD Anderson (Mỹ) phát hiện một số nhà khoa học gốc Hoa chuyển tài liệu cho Trung Cộng, và những người đó đã bị sa thải. Năm nay (2020), một nạn nhân nổi tiếng khác là Giáo sư Charles Lieber (Đại học Harvard) bị FBI bắt vì có cáo buộc rằng ông được tuyển vào chương trình Thousand Talents Plan và nhận lợi lộc (lương 50,000 USD mỗi tháng [?] và chuyển giao công nghệ cho Đại học Công nghệ Vũ Hán) nhưng ông không khai báo với phía Mỹ về những hoạt động đó. Nhưng trong thực tế thì có hàng trăm vụ đánh cắp khoa học khác ít khi nào được đề cập trên báo chí.

Nhiều nhà khoa học Trung Cộng mang chức danh khoa học (Giáo sư) sang các nước phương Tây để hợp tác nghiên cứu, nhưng trong thực tế họ là những sĩ quan quân đội cao cấp. Theo Alex Joske (một chuyên gia nghiên cứu về Trung Cộng), tính từ 2007 đến nay (2020), quân đội Tàu đã gởi ra nước ngoài hơn 2500 nhà khoa học nhưng thực chất là những sĩ quan cao cấp. Họ hợp tác tại các đại học hàng đầu của các nước phương Tây. Ở Úc, hai trường đại học được đề cập đến là Đại học New South Wales và Đại học Công nghệ Sydney.

***

Trong khi các chánh khách phương Tây đặt câu hỏi có phải họ đang ở vào thời Chiến tranh Lạnh với Trung Cộng, thì Trung Cộng đã có câu trả lời từ 30 năm trước. Không chỉ có câu trả lời mà họ còn chủ động phát động một cuộc chiến tranh như thế dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua Hidden Hand, bạn đọc có thể thấy rõ những lãnh vực mà Trung Cộng dưới sự điều hành của CCP đã xâm nhập vào hệ thống các thiết chế chánh trị, kinh tế, khoa học và công nghệ, truyền thông, và văn hoá của các nước phương Tây. Gần như các nước giàu có như Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Ý, Canada, Úc, v.v. đều không 'thoát' khỏi sự xâm nhập của CCP. Do đó, câu chuyện về ông dân biểu Úc được đề cập trong phần đầu của bài điểm sách này chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm.

Đối với chúng ta, người Việt Nam, đọc cuốn sách này rất 'thấm' và học được rất nhiều điều. Nhìn những nước phương Tây bị ảnh hưởng, thì câu hỏi Việt Nam có bị ảnh hưởng hay không là câu hỏi thừa thãi. Thỉnh thoảng người nước ngoài đọc báo chí Việt Nam bắt gặp những danh từ mới như "Thế lực thù địch", "Quyền lực mềm", "Trỗi dậy trong hoà bình", hay tên của những cơ quan như "Tổng cục II", "Mặt trận đoàn kết", mà không biết đến từ đâu, thì cuốn sách này cho chúng ta một câu trả lời về xuất xứ: Trung Cộng.

Trong phần mở đầu sách, Hamilton và Ohlberg quan sát rằng giới ký giả và học giả khi mới tới Trung Cộng (qua những chuyến đi do CCP tài trợ) thường có ấn tượng rằng đó là một đất nước phát triển thần kì, với tốc độ phát triển kinh tế cao nhứt nhì thế giới. Họ kinh ngạc trước những công trình kì vĩ, những công nghệ chẳng thua kém gì so với phương Tây. Tuy nhiên, họ quên rằng các nước khác cũng phát triển như vậy, thậm chí còn cao hơn Trung Cộng. Họ cũng quên rằng CCP chính là thế lực làm cho Trung Hoa lạc hậu cả 1 thế kỉ. Họ ca ngợi rằng 700 triệu người Hoa đã thoát khỏi cái nghèo, nhưng họ quên rằng từ 1949 đến nay, chính CCP là thủ phạm làm cho hàng trăm triệu người Hoa nghèo đói.

Tóm lại, Hidden Hand là một cuốn sách hay và đáng đọc như cuốn trước (Silent Invasion). Có thể xem cuốn sách là một cảnh báo -- có lẽ hơi muộn -- về mối đe doạ của Trung Cộng đến trật tự thế giới do phương Tây lãnh đạo. Chiến lược "Một vành đai, Một con đường" mà Trung Cộng đang quảng bá, khi đặt trong bối cảnh chung, có lẽ chỉ là một con ngựa Troia mà thôi. Trong khi nhiều người vẫn còn rơi vào những "bẫy mật" của Trung Cộng, thì cũng có nhiều người trong giới trí thức phương Tây đã ngộ ra mối đe doạ và có những hành động ngăn chặn. Cuốn sách này có lẽ sẽ giúp cho những ai còn thờ ơ (nhóm 5, theo cách phân loại của CCP) hiểu được những hình thức xâm lăng mềm, và hy vọng sẽ không rơi vào những cái "bẫy mật" được trải thảm bằng tiền.

N.V.T.

Chú thích:

[1] Sách Hidden Hand của Simon Hamilton và Mareike Ohlberg, do Nhà xuất bản Hardie Grant phát hành vào tháng 5/2020. Sách có 402 trang, bao gồm 270 trang nội dung chánh và 132 trang bị chú và tài liệu tham khảo.

Tác giả Simon Hamilton là giáo sư về đạo đức công chúng (Public Ethics) thuộc Đại học Charles Sturt (Canberra). Tiến sĩ Mareike Ohlberg là một nhà nghiên cứu gốc Đức chuyên nghiên cứu về các chánh sách và ảnh hưởng của Trung Cộng.

[2] https://www.nguyenvantuan.info/single-post/2018/08/26/Diem-sach-silent-invasion
______________

25 June 2020

Doanh nhân kiện Seattle về vụ khu phố bị người biểu tình chiếm giữ

SEATTLE - Hôm thứ Tư, Một tập hợp các doanh nghiệp, chủ  tài sản và cư dân Seattle đã kiện thành phố về việc Thánh phố đã để mặc một khu phố cho người biểu tình chiếm đóng, nói rằng giới chức chính quyền TP đã đồng lõa tước quyền của họ đối với tài sản của mình.

Các nguyên đơn - bao gồm một tiệm xăm hình, cửa hàng sửa chữa ô tô và công ty quản lý tài sản - nhấn mạnh trong vụ kiện rằng họ không cố làm suy giảm ý nghĩa của cuộc chống đối cảnh sát bạo hành.

Thay vào đó, vụ kiện này nói về quyền lập hiến và các quyền hợp pháp khác của nguyên đơn - doanh nghiệp, nhân viên và cư dân trong và xung quanh The CHOP* - khu đã bị tràn ngập vì quyết định chưa từng có của thành phố Seattle là bỏ ngỏ khu phố và đóng cửa toàn bộ khu chung quanh, để mặc khu phố không được cảnh sát kiểm soát, không có cứu hỏa và y tế khẩn cấp phục vụ và công chúng không thể tiếp cận nói chung.

Cuộc chiếm đóng bắt đầu vào ngày 8 tháng 6 khi Sở cảnh sát Seattle, sau những ngày đụng độ dữ dội với những người biểu tình sau khi George Floyd bị cảnh sát thành phố Minneapolis ngộ sát, cảnh sát đã rời bỏ trụ sở East Precincent trong khu dân cư đông đúc ở Đồi Capitol. Người biểu tình dùng rào cản cảnh sát để chặn giao thông, và một số cắm trại ở một công viên gần đó.

(TTR trích dịch bản tin CityNews, Toronto)
_______________________
(*) The CHOP (Capitol Hill Occupied Protest = Cuộc phản kháng chiếm Capital Hill). Khu CHOP chiếm khoảng từ 4 đến 6 blocks đường. 

24 June 2020

Tin rút ngắn:

Trùng Khánh có thể bị lũ lụt lớn nhất trong 80 năm qua


Hoa Lục gần đây xảy ra mưa lớn dẫn đến thảm họa lũ lụt, có đến 24 tỉnh thành bị lũ lụt tấn công. Ngày 22/6, chính quyền Hoa Lục phát đi thông báo khẩn cấp, mực nước sông Kỳ Giang ở Trùng Khánh đã vượt mức hạn chế 4 mét, dự tính trong 8 tiếng đồng hồ lưu vực Kỳ Giang sẽ gặp lũ lớn nhất kể từ năm 1940. 

Chính quyền Hoa Lục phát đi thông báo khẩn, dự tính trong 8 giờ tới lưu vực Kỳ Giang sẽ xuất hiện lũ lớn nhất kể từ năm 1940 đến nay. (Ảnh từ Weibo).

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang sau gần một tháng mưa lớn, đang gặp thách thức to lớn, mực nước ở thượng nguồn thành phố Trùng Khánh lại hứng chịu lũ lụt lớn nhất trong 80 năm qua. Đài Truyền hình Trung ương Hoa Lục (CCTV), Tân Kinh báo (Beijing News) đưa tin, Tổng trạm quan trắc thủy văn thành phố Trùng Khánh vào lúc 11:50 sáng ngày 22/6 đã công bố báo động đỏ lũ lụt, nói rằng do mưa lớn và nước suối thượng nguồn tăng mạnh, lưu vực Kỳ Giang (toàn đoạn Trùng Khánh) trong 8 tiếng đồng Hồ tới sẽ có đại lũ lụt trong lịch sử”, dự tính mực nước cao nhất tại trạm Ngũ Xá trên sông Kỳ Giang  (đoạn chảy qua quận Giang Tân) sẽ vượt mức giới hạn phòng chống lũ từ khoảng  5,7 – 6,3 mét, mức tăng có thể đạt từ khoảng 10 – 11 mét. Cơ quan hữu trách cho biết, đến nay ít nhất 40.000 người dân đã di tản.
**

Bà Cấn Thị Thêu và con trai đã bị Công an bắt giữ

Hai mẹ con nhà hoạt động nhân quyền Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Phương bị nhà cầm quyền CSVN bắt giữ sáng sớm ngày Thứ Tư, 24 Tháng Sáu, tại Hà Nội. Chưa rõ lý do của vụ bắt giữ, nhưng có thể hiểu là vì những lời phát biểu và các thông tin những tháng gần đây mà anh Trịnh Bá Phương phổ biến trên trang Facebook cá nhân liên quan đến vụ đấu tranh chống cưỡng chế đất tại xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức.

Trên trang Facebook Trịnh Bá Phương, đăng tải một video clip trực tuyến dài 6 phút 32 giây về chuyện xảy ra sáng sớm khoảng hơn 5 giờ sáng giờ địa phương ngày Thứ Tư, 24 Tháng Sáu (giờ địa phương) tại nhà
**
Chuyện dài cựu cố vấn của TT Trump – và “tự truyện” của Bolton

Ông Bolton từng giữ vai trò quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Bạch Ốc, nhưng những quan điểm mang tính “diều hâu” của ông bị cho là làm gia tăng căng thẳng với một số nước. Đây được cho là một phần lý do khiến ông bị TT Trump buộc phải rời khỏi Bạch Ốc vào tháng 9/2019.

Ông Navarro nói trên chương trình “State of the Union” của CNN rằng lời cáo buộc được cựu cố vấn an ninh quốc gia John Bolton nêu lên trong cuốn sách mới ra mắt thật “ngớ ngẩn”,  vì ông Trump cho tới nay rất cứng rắn với TC cũng như các hoạt động thương mại thiếu công bằng của Bắc Kinh. “Tôi chưa từng nghe điều đó. Tôi ở trong phòng”, ông Navarro nói, theo Reuters.

Ngay cả chính Bolton đã từng nói rằng ông sẽ sẵn sàng “nói điều gì đó [ông] biết là sai”, và đảng Dân chủ cho đến tận năm 2005 đã tấn công sự thiếu tin cậy của Bolton.

Hồi năm 2005, có đến 36 Thượng nghị sỹ yêu cầu TT George W. Bush không cử ông Bolton làm Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc. Lý do chính là ông Bolton là người “không đáng tin cậy” sau các cuộc phỏng vấn của thượng viện Mỹ. 

Các nhật báo từ The Washington Post đến New York Times đã gọi Bolton là một “người kể chuyện thiếu sót”, một người kể chuyện hư cấu hoặc có “những thiếu sót đáng kể”.

Theo Politico, cựu cố vấn an ninh quốc gia Mỹ John Bolton giờ đây không còn mấy đồng minh ở chính trường Washington. Sau khi các trích đoạn từ cuốn tự truyện mới của ông Bolton lan truyền trên mạng, hầu như tất cả đều đã quay lưng lại với ông.

Nghị sĩ Đảng Cộng hòa Kevin Cramer cho rằng ông Bolton “là một kẻ nghĩ ông ta được mời về làm tổng tư lệnh, nhưng thực tế là không”. Một Nghị sĩ Đảng Cộng hòa khác – ông Lindsey Graham nói thật khó để tin tưởng “một người khẳng định đã chứng kiến hành vi phản quốc và cản trở công lý, nhưng quyết định đem kể trong một cuốn sách”.

Nghị sĩ John Barrasso – nhân vật quyền lực thứ 3 trong Đảng Cộng hòa, nói thêm: “Trong mọi cuộc họp mà tôi từng gặp ông Bolton, ông ta cứ luôn xem bản thân là người thông minh nhất. Ông ta nghĩ mình nên làm Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện và Chánh án Toà án tối cao cùng lúc” (sic).

Nghị sĩ Đảng Dân chủ Sherrod Brown cho biết ông John Bolton “quan tâm đến cuốn sách của ông nhiều hơn là trách nhiệm trước quốc dân”. Một Nghị sĩ Đảng Dân chủ khác – ông Chris Murphy, cáo buộc ông Bolton “rõ ràng chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền chứ không phải nền cộng hòa”.
**

Nam Hàn đả kích cựu cố vấn Bolton ‘xuyên tạc’ thượng đỉnh Trump-Kim

Các tin tức loan ra nói ông Bolton viết là Tổng Thống Moon Jae-in của Nam Hàn, người rất muốn cải thiện mối quan hệ với Bắc Hàn, đã đưa ra các đề nghị không thực tế với cả Kim Jong Un và Tổng Thống Trump cho chương trình thống nhất với Bắc Hàn của riêng cá nhân ông ta.

Cố vấn an ninh quốc gia Nam Hàn Chung Eui-yong đưa ra bản thông cáo nói rằng lời kể của ông Bolton trong cuốn sách “không phản ánh chính xác sự việc mà lại còn xuyên tạc một số vấn đề.”

Ông Chung không cho biết rõ chi tiết về những gì mà phía Nam Hàn coi là không chính xác, nhưng cũng nói việc xuất bản cuốn hồi ký “tạo tiền lệ nguy hiểm.”

“Việc đơn phương xuất bản các cuộc tham khảo dựa trên sự tin tưởng song phương vi phạm nguyên tắc căn bản của ngoại giao và có thể gây nguy hại trầm trọng cho các cuộc thương thảo trong tương lai,” theo lời ông Chung.

22 June 2020

Hậu Coronavirus & Tập Cận Bình

Tưởng Năng Tiến

Cuồng vọng là căn bệnh ung thư về đạo đức đối với tất cả những kẻ độc tài, càng là những kẻ độc tài nhiều quyền lực càng cuồng vọng, không cần nhắc tới nước ngoài, chỉ cần Trung Quốc thôi cũng đã có Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Minh Thái Tổ, Khang Hy, Càn Long, Mao Trạch Đông… ví dụ quá đầy đủ! Những nhân vật chính trị đầy quyền lực này cũng đầy đủ năng lực để cưỡng ép, khuếch tán những tế bào ung thư ra toàn xã hội. (Lưu Hiểu Ba)

Bữa mừng sinh nhật bác Hồ, Cậu Bẩy nổi hứng đọc mấy câu vè (nghe) không thanh tao lắm:
Nếu ngày ấy, Paris trời trở lạnhCục gạch hồng không đủ ấm qua đêmBác chết cóng trên mình cô đầm náiThì ngày nay tổ quốc đã êm đềm
Vì không có khả năng sáng tác những câu thơ huê dạng (Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác hay Bác về … im lặng/ Con chim hót/ Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ) và cũng chả làm được mấy câu vè bỗ bã nên tôi chỉ giản dị nghĩ rằng: Người đi đâu cũng đặng, về lúc nào cũng xong, miễn là “cái tôi” của Bác nhỏ lại tí xíu – xíu nữa thôi – thì đỡ cho trăm dân muôn họ biết chừng nào!

Hai ông Chế Lan Viên và Tố Hữu đỡ phải mang tiếng là những kẻ xu thời, ton hót. Cậu Bẩy cũng đỡ phải thốt lời cay đắng, mỉa mai. Cây rừng thì đỡ bị đốn chặt, để làm giấy in hằng trăm ngàn cuốn sách mà Bác tự viết về mình nhưng (làm bộ) ghi tên ai khác cho nó đỡ kỳ. Và bá tánh thì khỏi lâm vào cảnh chiến tranh (đến đôi ba bận) vì buộc phải đi theo “con đường mà Đảng và Bác kính yêu đã chọn.”

Ở bình diện quốc tế, international level, cũng thế. Phần lớn những cuộc binh đao trong lịch sử đều do những “cái ngã” quá lớn mà ra cả. Pascal tin rằng: “Nếu cái mũi của Cléopâtre ngắn đi một tí, bộ mặt của cả địa cầu đã khác" – Si le nez de Cléopâtre eût été plus court, toute la face du monde aurait changé. Tôi sinh sau đẻ muộn, không biết mặt ngang/mũi dọc của bà nữ hoàng Ai Cập ra sao nên không tiện lạm bàn, chỉ có thể đoan chắc nếu “cái moi” của Hitler nhỏ hơn tí nữa thì nhân loại (dám) đã tránh được một trận tương tàn khốc liệt.

Thế Chiến Thứ Hai để lại một thế giới tan hoang và vài chục triệu xác người vương vãi khắp nơi. Sau đó, cũng vì cuồng vọng của nhiều Người Cầm Lái Vỹ Đại (Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành  … ) nên lại có thêm hằng trăm triệu sinh linh bị giết hại, thủ tiêu, hành hình … bằng muôn vàn phương cách.

Lịch sử không có cái vụ “nếu!” Tuy biết vậy nhưng mấy bữa nhớ bằng hữu quá (rủ rê tụi nó gầy bàn nhậu nhưng thằng nào cũng lắc đầu quầy quậy vì sợ coronavirus) nên tôi vẫn lẩn thẩn nghĩ rằng nếu cái ngã của Tập Cận Bình nhỏ bớt được tí nữa thì mình đã không mất cả chục ngày đàm đúm vui chơi với bạn bè. Nỗi mất mát này, tất nhiên, không có gì đáng kể, nếu so với con số gần nửa triệu người mất mạng chỉ trong vài tháng vừa qua – theo tường thuật của T.S Nguyễn Tường Bách:

“Nhà thiêu xác quá tải, những hộp tro vung vãi tại Trung Quốc, những nấm mồ tập thể tại Mỹ, cảnh tử thi nằm trên đường phố cả tuần tại Nam Mỹ không ai thu dọn. Tất cả đều là những cảnh tượng của thế kỷ XXI, những điều mà trước đó vài ba tuần không ai có thể hình dung được. .. Rất nhiều cơ sở phá sản, cả trăm triệu người lâm vào cảnh thất nghiệp và rơi vào bế tắc tài chánh. Rõ ràng nhất là, cấu trúc kinh tế của thế giới trong những năm qua sẽ bị thay đổi một cách triệt để…

Hiện nay, tuyệt đối không ai có thể nói, bộ mặt của thế giới cuối năm 2020 sẽ như thế nào, về trật tự chính trị, về cấu trúc kinh tế, về đời sống xã hội. Tất cả những khía cạnh này hiện đang tác động hỗ tương lên nhau và cuối cùng, ảnh hưởng lên quyết định của lãnh đạo các siêu cường, những người có thẩm quyền sinh sát toàn nhân loại.”

Với ít nhiều lạc quan, và chủ quan, tôi tin rằng dịch Vũ Hán rồi sẽ qua trong tương lai gần. Quả đất vẫn cứ quay đấy thôi. Kinh tế rồi sẽ hồi phục dần dần. Nhân loại lại tiếp tục sinh hoạt y như cũ, với ý thức vệ sinh (và cộng sinh) lành mạnh hơn xưa. Quan hệ toàn cầu sẽ trở lại bình thường, trừ mỗi cái nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc (People’s Republic of China) thì tôi … không hoàn toàn bảo đảm.

Tôi (dám) có chút máu Tầu nên chả hà cớ chi mà lại đi kỳ thị gần một phần năm dân số toàn cầu. Vấn đề là cái tôi của những vỹ lãnh đạo ở xứ sở này quá lớn, nhất là ông Tập Cận Bình – Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương – người đã đẩy cả nước đi trật đường rầy quá xa (tới mấp mé hố thẳm luôn) nên hiện tình Trung Hoa – xem ra – không còn thuốc chữa. Phen này (e) sẽ lôi thôi lớn, lôi thôi lâu, và lôi thôi lắm!

Gordon Chang (The National Interest) bầy tỏ nỗi quan ngại: “Kinh tế Trung Hoa gặp rắc rối to. China’s economy is in deep trouble.” Mà nào có riêng chi kinh tế. Ngoại giao còn tệ hại hơn nhiều. Cách ứng xử của họ Tập, sau khi cúm Tầu lan tràn khắp chốn, đã giúp cho thiên hạ nhìn ra cái bộ mặt vẫn thường được che dấu của vị Tân Hoàng Đế Trung Hoa: hợm hĩnh, trơ trẽn, tráo trở, ti tiện, tham lam, xảo quyệt và gian ác! Kỳ vọng của nhân loại về một nước Trung Hoa sẽ “dân chủ” và “dễ thở” hơn khi kinh tế được cải thiện, rõ ràng, đã trở thành ảo vọng.

Le Monde kết luận: “Kể từ thời Mao Trạch Đông rồi Đặng Tiểu Bình đến nay, chưa bao giờ giữa Trung Quốc và phương Tây lại có khoảng cách xa vời vợi đến thế.” Nói chi đến phương Tây. Đến nay thì ngay cả mấy tay lãnh đạo thuộc loại đầu trâu mặt ngựa ở Trung Đông và Phi Châu cũng phải “chạy mặt” luôn rồi. Chả còn thằng nào muốn dây dưa với cái đám con Trời này nữa.

Cả quyền lực cứng lẫn quyền lực mền của Trung Hoa, sau đại hoạ Vũ Hán, đều  cùng đi trên một chuyến tầu – tầu suốt. Cái gọi là Tư Tưởng Tập Cận Bình, Trật Tự Trung Hoa, Giấc Mơ Trung Quốc, Giấc Mộng Siêu Cường, Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường, Dự Án Của Thế Kỷ …  – thoáng chốc – đều thành công cốc chỉ vì cuồng vọng và cái “tôi” quá khổ của Tập Cận Bình.

Coi: nếu cứ để từ từ với thời gian thì Hồng Kông làm sao mà “tuột” đi đâu được. Vì háo thắng họ Tập đã biến hòn ngọc này thành một mảnh xương gà, tuy nhỏ tí thôi nhưng cứng ngắc và nhọn hoắt, rất khó nuốt xuôi. Cũng do xuẩn động, đương sự  đã khiến cho giấc mộng Một Trung Hoa (One-China Policy) mỗi lúc một thêm xa lắc. Tấm gương Hương Cảng khiến cho người dân Đài Loan đề cao cảnh giác, biến đảo quốc này thành một pháo đài – một cục gân mà hàm răng già nua của Trung Hoa Lục Địa e không còn đủ sức để nhai.

Tham vọng bá quyền, bất chấp công luận của Trung Cộng ở Tân Cương/ Tây Tạng/ Biển Đông (cùng với những cái bẫy nợ giăng mắc khắp nơi, và thái độ trơ tráo của TCB sau khi xuất cảng Coronavirus) đã khiến cho vị Tân Hoàng Đế Trung Hoa bị coi như một tên côn đồ vô liêm sỷ, bị khinh bỉ và xa lánh!

Hitler còn có đám quân phiệt Nhật Bản hùng hổ đứng bên, chứ  hiện nay thì Tập Cận Bình chỉ có … mình ên. Trước thái độ sẵn sàng nghênh chiến của India, Hoàn Cầu Thời Báo (đọc được vào hôm 7 tháng 6 năm 2020) lên tiếng cảnh giác: “Ấn Độ chớ có ảo tưởng về sự hổ trợ vững chắc của Hoa Kỳ và Đồng Minh (The US and its allies  have established various contact mechanisms with India, making India falsely believe that it is well – supported.) Nói vậy là Trung Hoa Lục Địa đã gián tiếp thừa nhận rằng mình đang cô thế, dáo dác nhìn quanh cũng chỉ thấy hai chú đàn em nhỏ xíu xiu thôi: Bắc Hàn và Cambodia. Dân số cả hai đều chả có bao nhiêu mà lại đói rách thường trực và đói rách kinh niên. Nếu ngưng viện trợ là hai thằng sẽ chết không kịp ngáp.

Hitler tin rằng Đệ Tam Quốc Xã sẽ kéo dài cả ngàn năm. Nó tồn tại được hơn chục năm (Hitler believed that the Third Reich would endure a thousand years. It lasted a dozen – Sir Alan Bullock). Đế Quốc của Tập Cận Bình, xem chừng, cũng không khác mấy!

6/2020
Tưởng Năng Tiến

Tưởng niệm Giám Đốc sở tình báo xâm nhập miền Bắc Phan Quang Đông bị nhóm loạn tướng xử tử hình

Ông Phan Quang Đông tên thật là Phan Quang Tùng, sinh năm 1929, tại làng Lệ Định, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Trong thời niên thiếu ông được gia đình gởi vào học trường Peleren của Dòng Lasan tại Huế.

Ông Phan Quang Đông cao khoảng 1.65 m, nước da ngâm ngâm, cười rất có duyên, và là con người hết sức đạo đức. Ít nói và không bao giờ to tiếng với bất cứ ai.

1951-1953 ông là giáo Sư Việt văn tại trường Trung học Thiên Khải Đường, thuộc Nghi Lộc, Đông Thái, Vinh, thuộc tỉnh Nghệ An.

Vào khoảng tháng 10/1953 ông Phan Quang Đông cùng với một số bà con, bạn bè như Phan Quang Điều, Phan Văn Chính, Phan Bình Phúc, Phan Văn Luận, và Phạm Nho tức Phan Hồng Xuân tổ chức vượt biên giới qua Lào vào Nam Việt Nam. Lần đầu bị thất bại, và lần thứ hai họ may mắn gặp một đơn vị tiền phương của quân đội Pháp trong vùng rừng núi Lào phát hiện. Quân Pháp đã bắt ông Phan Quang Đông cùng 5 người bà con, bạn bè của ông ta đưa về đồn Nape, rồi đưa về Savanakhet, và sau đó đưa về Vientien thủ đô của Lào để phòng 2 quân đội Pháp điều tra. Sau mấy ngày điều tra, tất cả được trả tự do, riêng ông Phan Quang Đông lại được phòng 2 của quân đội Pháp tuyển dụng.

Khoảng tháng 4 năm 1954 tất cả được Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đón về nước.

Cuối tháng 6/1954 ông Phan Quang Đông tức Phan Quang Tùng động viên vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đang trong khóa học, thì người bạn học cùng trường Pelerin thuở xưa là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến hiện là Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống đã đưa ông Phan Quang Đông từ quân Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức đi huấn luyện khóa tình báo ở ngoại quốc và vào năm 1956 sau khi trở về được đồng hóa cấp bậc Trung Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cũng từ đó họ tên Phan Quang Tùng vĩnh viễn không còn nữa mà là Phan Quang Đông.

1957, Trung Úy Phan Quang Đông được Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống bổ nhiệm làm Giám Đốc một cơ quan tình báo “Tối Mật” tại Huế với tên danh xưng là: Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Địa Lý.

Vị sĩ quan trẻ Phan Quang Đông vừa trí thức vừa có tinh thần quốc gia và lòng yêu thương quê hương cao độ. Đặc biệt là ông không khoan nhượng với cộng sản Bắc Việt.

Trụ sở của cơ quan tình báo “Tối Mật” đặt tại số 9 Đường Lê Lợi thuộc Quận III Thị xã Huế, cạnh bờ sông Hương và sát cạnh Tòa Đại Biểu Chính Phủ. Trụ sở nằm đối diện với tư dinh vị Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Nhiệm vụ của cơ quan tình báo tối mật nầy là:

1)- Thiết lập một đài kiểm thính đặt tại Huế để kiểm soát mọi điện đàm và mọi công điện mật của các giới chức cao cấp dân sự cũng như quân sự của chính phủ Bắc Việt.

2)- Kiểm thính, bắt chận tất cả các điện tín mật, tối mật của các cơ quan tình báo dân sự và quân sự từ chính phủ Bắc Việt gởi vào cho Cục R Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và các điệp viên cộng sản đang hoạt động tại miền Nam Việt Nam.

3)- Phát hiện mọi điều động và di chuyển của các đơn vị quân sự địch từ bắc vào nam, gồm quân số và vũ khí từ miền Bắc vào đến miền Nam dọc dãy Trường Sơn và đường biển.

Đài kiểm thính nầy đặt tại Phú Bài. Đài có 20 chuyên viên Đài Loan và Việt Nam. Đài được điều hành bởi một Trung Tá thuộc quân đội Đài Loan, nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Trung Úy Phan Quang Đông, Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Địa Lý.

Trong việc thiết lập đài kiểm thính miền Bắc, chính phủ của Tổng Thống Diệm đã gặp trở ngại lớn với chính phủ Hoa Kỳ. Đó là khi chính phủ Việt Nam yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ viện trợ thiết lập cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa một đài kiểm thính tối tân để theo dõi mọi hoạt động của chính phủ cộng sản miền Bắc, chính phủ Hoa Kỳ đã từ chối lời yêu cầu nầy. Ngược lại họ yêu cầu cho họ tự thiết lập một đài kiểm thính đặt tại Huế, do họ và chuyên viên của họ tự điều hành.

Việt Nam Cộng Hòa bị Hoa Kỳ từ chối viện trợ thiết bị và chuyên viên huấn luyện, nên buộc lòng phải vận động quốc gia thân hữu Đài Loan (Republic Of China) mua dụng cụ và thuê chuyên viên Đài Loan huấn luyện cho chuyên viên Việt Nam thiết lập và điều hành đài kiểm thính miền Bắc.

4)- Gởi các điệp viên ra miền Bắc, với nhiệm vụ thu lượm tin tức tình báo chiến lược quân sự cũng như dân sự. Họ có điện đài lưu động, bí mật đặt tại các nhà an toàn tại Hà Hội và các nơi khác. Vào giờ khuya các điệp viên chuyển tin về Bộ Chỉ Huy Sở Nghiên Cứu Địa Lý tại Huế.

5)- Tổ chức các phong trào quần chúng nổi dậy tại các đô thị miền Bắc nhằm lật đổ chế độ cộng sản miền Bắc. Vụ đồng bào Quỳnh Lưu, Nghệ An, nổi dậy vào năm 1957 là một ví dụ điển hình cho công tác của đoàn Nghiên Cứu Địa Lý của ông Phan Quang Đông.

6)- Ngăn chận và vô hiệu hóa các gián điệp của Bắc Việt đưa vào hoạt động tại miền Nam qua ngã sông Bến Hải, hoặc qua ngã đường bộ rừng núi Trường Sơn, hoặc đường biển xuất phát từ bờ biển thuộc vùng biển Do Linh, hoặc từ bờ biển các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

7)- Trong tất cả mọi công việc, cơ quan Nghiên Cứu Địa Lý của ông Phan Quang Đông đều phúc trình về sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống để trình lên Tổng Thống Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Phúc trình bao gồm mọi tin tức mà Sở Nghiên Cứu Địa Lý tại Huế thâu nhận được về chính sách, chủ trương đường lối của chính phủ Hà Nội đối với Việt Nam Cộng Hòa.

Tóm lại sở Nghiên Cứu Địa Lý tại Huế do Ông Phan Quang Đông chỉ huy là một cơ quan Tình Báo Chiến Lược của Việt Nam Cộng Hòa đối đầu với cơ quan Tình Báo Chiến Lược của cộng sản miền Bắc. Ông Phan Quang Đông và cơ quan tình báo của ông không hề và cũng chẳng có trách nhiệm gì với phong trào tranh đấu Phật Giáo tại Huế, cũng như biến cố tai nạn tại đài phát thanh Huế vào đêm 8 tháng 5 năm 1963 (Lễ Phật Đản 1963).

Theo ông Nguyễn T. H., nguyên bí thư của ông Phan Quang Đông, thì trong ngày 2/11/1963 sau khi hay tin Tổng Thống Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị đám loạn tướng hạ sát, ông Phan Quang Đông đã chỉ thị cho ông Nguyễn T. H.:

1)- Đánh điện khẩn cấp cho số điệp viên đang hoạt động ngoài miền Bắc biết rõ tình hình hiện tại tại miền Nam, đồng thời cho lệnh khẩn cấp họ rời khỏi địa bàn hoạt động rút toàn bộ về Nam qua ngã Lào.

2)- Thủ tiêu, hoặc bí mật cất dấu các tài liệu mật, tối mật, liên quan đến các điệp viên, công tác, chiến dịch, ngoài miền Bắc để khỏi lọt vào tay địch gây nguy hại sinh mạng cho anh em.

Ngày 3/11/1963, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I, ra lệnh bắt giữ ông Phan Quang Đông và lục soát cơ quan tình báo của ông ta tại một căn nhà nằm trên bờ sông Hương, đối diện với tư thất ông Tỉnh Trưởng. Ông Phan Quang Đông đã nói với viên sĩ quan trưởng toán đến bắt ông ta rằng: - Thiếu úy vui lòng cho tôi gặp Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí, cơ quan chúng tôi có một số công việc tối quan trọng phải bàn giao với Thiếu Tướng Trí trước khi tôi rời nhiệm sở nộp mình cho các ông.

Viên sĩ quan trưởng toán bằng lòng, và sau đó cuộc gặp gỡ được diễn ra chỉ có 3 người: Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí, Ông Phan Quang Đông, và ông Nguyễn T. H. tức bí thư của ông Phan Quang Đông. Cuộc gặp rất ngắn ngủi và nội dung như sau:

Ông Phan Quang Đông: -Tôi là Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Địa Lý kiêm Giám đốc Đài Kiểm Thính miền Bắc. Cơ quan chúng tôi trực thuộc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống. Công việc của chúng tôi là những điệp vụ ngoài miền Bắc, hoàn toàn không liên hệ dính dấp gì đến nội tình chính trị tại miền Nam. Hiện tại chúng tôi có một số nhân viên đang hoạt động ngoài đó. Tôi đã đánh điện thông báo cho họ biết tình hình hiện tại tại miền Nam và đã ra lệnh cho họ rời bỏ địa bàn hoạt động rút về Miền Nam theo ngã Lào. Trước khi nộp mình cho Thiếu Tướng, tôi có những yêu cầu không cho cá nhân tôi mà cho công việc chung xin Thiếu Tướng lưu tâm và giúp cho: 

1)- Đây là hồ sơ, tài liệu, mật mã, máy móc truyền tin liên lạc, xin giao lại cho Thiếu Tướng. 

2)- Một số lớn anh em, những điệp viên của chúng ta. Trước đây tôi tung họ ra hoạt động ngoài Bắc, nay vì tình hình đặc biệt tôi đã báo cho họ biết và đã ra lệnh cho họ rút về theo ngã Lào, tôi xin Thiếu Tướng lo lắng giúp đỡ họ. 

3)- Tại Chín Hầm, cơ quan tình báo của chúng ta hiện đang giam giữ một số cán bộ cao cấp Việt Cộng. Trong những ngày đến, cho dù tình huống chính trị có biến đổi như thế nào đi nữa, thì cũng xin Thiếu Tướng lưu ý cho, một trong những tên việt cộng cao cấp nầy không thể thả được, bằng không, an ninh của miền Nam sẽ nguy hại vì tên nầy.

Tôi nhớ không lầm, theo Nguyễn T. H., tên việt cộng cao cấp đó là Mười Hương. Đây là nhân vật mà cơ quan an ninh Việt Nam Cộng Hòa dùng làm vật trao đổi với cộng sản Bắc Việt trong trường hợp có viên chức cao cấp và quan trọng của Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Cộng bắt. Đặc biệt là ông Ngô Đình Cẩn vì ông ta có thú giải trí là đi câu cá và không bao giờ nghe lời khuyên của cơ quan an ninh nơi nào đi được và nơi nào không nên đi.

Và sau cuộc bàn giao ngắn ngủi đó, ông Phan Quang Đông tự nộp mình cho Tướng Đỗ Cao Trí. Ông bị đám phản loạn tống giam và chờ ngay ra “Tòa Án Cách Mạng” của bọn chúng do Tướng Nguyễn Khánh thành lập. Viên bí thư Nguyễn T. H., cùng toàn bộ nhân viên của Sở Nghiên Cứu Địa Lý và một số hồ sơ “Mật”, “Tối Mật” cũng đã biến mất, nhưng chắc chắn một trăm phần trăm không lọt vào tay địch.

Tướng Đỗ Cao Trí, vì sợ Thích Trí Quang và đám Tăng lữ Phật Giáo Việt Cộng Ấn Quang tại Huế, đã không làm tròn bổn phận của một cấp chỉ huy có trách nhiệm đối với thuộc cấp và trọng trách đối với nền an ninh quốc gia. Ông đã không giữ đúng lời cam kết với ông Phan Quang Đông:

- Số Điệp viên hoạt động ở ngoài Bắc

Họ đã không còn nhận được một chỉ thị nào của Trung Ương ngoài chỉ thị cuối cùng của ông Phan Quang Đông. Một số đã vượt thoát qua đường Lào tìm về miền Nam, số không vượt thoát được, kẻ thì bị địch bắt, người không bị bắt thì quên dĩ vãng sống trong vùng địch chờ ngày… thật quá đau đớn!

- “Quý Thầy” bị "Mật vụ Nhu Diệm" giam tại Chín Hầm

Đầu tiên xin được nói về địa danh Chín Hầm. Chín Hầm là một địa danh nằm về phía tây nam thành phố Huế. Mặt trước của Chín Hầm tiếp giáp với mặt sau của dòng tu Thiên An. Phía bên mặt của địa danh Chín Hầm tiếp giáp với mặt sau lăng vua Khải Định và làng Châu Chữ thuộc quận lỵ Nam Hòa, nhưng địa danh Chín Hầm thuộc quận lỵ Hương Thủy. Năm 1944-1945 quân đội Nhật đã xây 9 hầm chứa đạn tại đây. Sau đó khi quân đội Nhật đầu hàng, lực lượng quân đội Pháp lại dùng 9 hầm nầy vừa làm kho chứa đạn vừa làm những hầm đóng quân bảo vệ an ninh phía tây nam thành phố Huế chống lại du kích Việt Minh. Đến thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa, 2 trong 9 ngôi hầm đó được sửa sang lại thành trại giam và là nơi các cơ quan an ninh tình báo, khi bắt được những tên cán bộ cao cấp cộng sản, thường giam giữ tại đây để bảo mật nhằm tránh khỏi sự dòm ngó tìm tòi của địch.