25 September 2021

Những Ảo Tưởng Nguy Hiểm Của Tướng Mark Milley

 It was Trump Derangement Syndrome*, not Trump, that posed the greatest threat to the country. 

Chính cái hội chứng bấn loạn vì Trump, chứ không phải Trump, đã gây ra mối đe dọa to lớn cho đất nước này...

George Neumayr**

Ba Sàm lược dịch


Giai cấp đang thống trị ở Mỹ hiện nay coi nhiệm kỳ tổng thống của Trump là một cuộc khủng hoảng duy nhất trong lịch sử đất nước.

Từ những tiếng la hét chói tai liên tục của giới truyền thông, người ta có thể nghĩ rằng nước Mỹ đã rơi vào tay một kẻ xâm lược nước ngoài.

Bởi vì giai cấp thống trị đó ngay từ đầu đã coi Trump là bất hợp pháp, nên hầu như tất cả các hành động điều hành của ông ta, bất kể là tầm thường dung tục đến mức nào, đều bị tai tiếng và rắc rối sâu sắc.

Các phương tiện truyền thông đã cường điệu hóa những cuộc tranh cãi bất tận về Trump, nhưng chúng không bao giờ là đủ đối với họ. Hầu hết chúng đều xoay quanh việc Trump vi phạm vào sở thích tinh tế của họ hoặc những sai lệch của ông ta so với thứ “quy tắc chuẩn mực” cung đình (Beltway) không quan trọng đó.

Tám lời dối trá của Big Media về cựu TT Trump đã bị vạch trần, còn gì nữa không?

Nước Mỹ đã đi từ những cuộc khủng hoảng giả dưới thời Trump sang những cuộc khủng hoảng thực sự dưới thời Biden – từ một thời kỳ thái bình đến một nhiệm kỳ tổng thống với những túi đựng xác, những cuộc sơ tán bất thành và những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái thất bại.

Bộ Ngoại giao chặn các chuyến bay cứu hộ của tư nhân rời khỏi Afghanistan, các nhà tổ chức nói: “Trên tay họ đang vấy máu”.

Tuy nhiên, sự thèm muốn của tầng lớp thống trị đối với những cuốn sách cuồng loạn viết về nhiệm kỳ tổng thống Trump vẫn chưa suy giảm. Giờ đây, Washington rất hào hứng về việc Bob Woodward sẽ đảm nhận việc viết về những ngày cuối cùng của Trump. Đừng bận tâm rằng vụ bê bối lớn nhất mà cuốn sách của ông ta khai quật được không phải đến từ Trump, mà là từ việc Tướng Mark Milley mắc hội chứng rối loạn hô hấp để nói quá về ông ấy.

Trump nói Milley đã phạm tội “PHẢN QUỐC‘’ nếu ông ta nói chuyện với quân đội Trung Quốc.

Có vẻ như Milley, dựa trên nỗi sợ hoang tưởng về trạng thái tinh thần của Trump sau ngày 6 tháng 1, nên đã thực hiện hành vi phản quốc.

Theo cuốn sách của Woodward, Milley đảm bảo với người Trung Quốc rằng ông sẽ bảo vệ họ trước bất kỳ hành động quân sự nào do Trump ra lệnh trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống. “Nếu chúng tôi chuẩn bị tấn công, tôi sẽ gọi cho ngài trước.” Milley nói với một tướng Trung Quốc. “Sẽ không có gì ngạc nhiên.”

Đại tá về hưu: cuộc gọi cho Trung Quốc của Mark Milley, nếu có, là ‘vi phạm luật pháp’;ông ta không có thẩm quyền theo luật định’

Ở đây, chúng ta thấy một lần nữa mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ không đến từ Trump, mà đến từ một giai cấp thống trị đang nắm trong tay Hội chứng rối loạn vì Trump. Nằm ngoài trí tưởng tượng gây sốt của giai cấp thống trị, cuộc điều tra của Mueller đã khiến đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn trong nhiều năm, tất cả đều dựa trên một giả định về sự cấu kết với nước ngoài  vốn chưa bao giờ xảy ra. Hóa ra chính chính phủ của chúng ta, dưới thời Barack Obama, đã can thiệp nhiều nhất vào cuộc bầu cử năm 2016, theo dõi chiến dịch tranh cử của Trump một cách vô cớ.

Đã từng có tổng thống nào bị cư xử ác tâm và bị quấy rối vì những gì ông ta không làm hơn là Trump chưa? Những người như Mueller và Milley đã tấn công ông ta vì sự thông đồng mà ông ta không bao giờ cam kết và cuộc chiến mà ông ta chưa bao giờ bắt đầu.

Đối với một nhà độc tài được cho là quái dị, Trump đã rất kiềm chế và khoan dung. Thật vậy, toàn bộ thứ công nghiệp kiểu hộ gia đình của những cuốn sách chống Trump là kết quả của sự khoan dung đó: ông để những người chỉ trích ông, chẳng hạn như John Bolton, vào chính quyền của mình. Trong trường hợp của Bolton, ông ta tức giận với Trump vì sự thiếu kiên định của chính mình. Như New York Times đã có bài viết về cuốn sách của Bolton:

… Thời điểm mà ông ấy coi là “bước ngoặt” thực sự đối với ông ấy trong chính quyền liên quan đến một cuộc tấn công vào Iran, điều mà Bolton thất vọng nặng nề, đã không xảy ra.

Vào tháng 6 năm 2019, Iran đã bắn hạ một máy bay không người lái của Mỹ và Bolton, người luôn vô địch về điều mà ông tự hào gọi là “phản ứng không cân xứng”, đã thúc đẩy Trump chấp thuận một loạt các cuộc tấn công quân sự để trả đũa. Bạn có thể cảm nhận được sự phấn khích của Bolton khi ông ấy mô tả rằng mình về nhà “vào khoảng 5 giờ 30 phút” để thay quần áo vì ông ấy dự kiến ​​sẽ ở Nhà Trắng “cả đêm”. Do đó, đó là một cú sốc khủng khiếp khi Trump quyết định ngừng các cuộc tấn công vào phút cuối, sau khi biết rằng họ sẽ giết tới 150 người. “Quá nhiều túi đựng xác,” Trump nói với ông ta. “Nó không tương xứng.”

Bolton dường như vẫn còn tức giận trước màn thể hiện thận trọng và nhân văn bất ngờ này của Trump, coi đó là “điều phi lý nhất mà tôi từng chứng kiến ​​ở bất kỳ Tổng thống nào từng làm”.

Câu chuyện này phản ánh đúng về Trump và giải thích tại sao nhiệm kỳ tổng thống của ông không có đổ máu.

Nhưng giai cấp thống trị có một khả năng duy nhất là bực tức vì con muỗi nhưng lại chịu nhịn con lạc đà. Nó có thể mang lại sự tôn trọng cho George W. Bush, người mà những hành động sai trái ở Trung Đông đã dẫn đến cái chết của hàng chục nghìn người vô tội, trong khi lại xa lánh Trump, người mà nhiệm kỳ tổng thống được đánh dấu bằng hòa bình và không có thương vong.

Phần lớn, hòa bình và thịnh vượng đã xác định nhiệm kỳ tổng thống của Trump. Do đó, các nhà sử học tương lai sẽ thấy mọi sự ồn ào về nó thật khó hiểu và ngớ ngẩn. Như câu chuyện của Milley minh họa, những đòn đau đớn nhất, tự gây ra cho nước Mỹ lại không phải đến từ Trump mà là từ những người chỉ trích hoang tưởng của ông.

(*) Hội chứng bấn loạn vì Trump (Wikipedia): (Trump derangement syndrome (TDS) là một thuật ngữ có tính miệt thị, thường để chỉ những lời chỉ trích hoặc phản ứng tiêu cực đối với cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, được cho là thiếu lý trí và ít quan tâm đến các quan điểm chính sách trên thực tế của Trump hoặc các hành động do chính quyền của ông thực hiện. 

Thuật ngữ này chủ yếu được những người ủng hộ Trump sử dụng để làm mất uy tín những lời chỉ trích về hành động của ông, như một cách sắp xếp lại cuộc thảo luận bằng cách cho rằng các đối thủ của ông không có khả năng nhận thức chính xác thế giới. Đồng sáng lập Politico John Harris đã viết rằng TDS có liên quan đến hiện tượng lạm dụng nhận thức của nạn nhân (gaslighting), “một khái niệm tâm lý khác thịnh hành trong thời Trump.” Các nhà báo đã sử dụng thuật ngữ này để kêu gọi sự kiềm chế khi đánh giá các tuyên bố và hành động của Trump …

(**)

_______________

24 September 2021

Cơm Tình, thơ


Lão Tử và Khổng Tử

Hơn hai ngàn năm trước có cuộc gặp kỳ lạ giữa Khổng và Lão.

Khổng ngồi kiệu đi trên đại lộ. Ngài vừa phe phẩy chiếc quạt, vừa lim dim đôi mắt. Bọn người khênh kiệu còng lưng đi thật đều để giữ thăng bằng cho thầy an tọa. Bỗng phía trước có kẻ cỡi trâu cắt ngang qua. Khổng mở mắt nhìn và quát:

– Tên trẻ trâu kia vô lễ, đường lớn không đi lại cắt ngang mặt người ta?

Con trâu dừng lại ngoái cổ nhìn. Tên trẻ trâu cười nói:

– Ngươi biết ta đã bao nhiêu tuổi rồi không mà cao giọng bảo ta trẻ trâu vô lễ? Chẳng qua ngươi đi trên con đường người ta đã dọn sẵn. Sự thực không có đường nào là lớn cả. Nơi không có đường mới thực sự là lớn!

Khổng mở to mắt nhìn. Bây giờ mới thấy người kia dù mặt mũi trẻ con nhưng râu tóc bạc phơ, chừng như đã sống mấy trăm năm, bèn ra lệnh cho phu hạ kiệu và bước xuống vòng tay thi lễ:

– Tại hạ có mắt như mù. Chẳng hay lão trượng chính là Lão Tử, người nước Sở?

Lão vẫn ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nheo mắt cười:

– Đích thị là mỗ, bốn phương là nhà, không cần biết sinh ra ở đâu! Thái độ trịch thượng như ngươi ta đoán không nhầm là người họ Khổng nước Lỗ? Chào Khổng Phu Tử!

Khổng lại vái chào lần nữa:

– Tại hạ là Khổng Khâu đây, Đạo của tại hạ vốn khiêm cung, lão trượng đã quá lời…

Lão nhìn bọn phu kiệu lưng ướt đẫm mồ hôi rồi nhìn Khổng khăn áo lượt là mà cười, con trâu cũng cười theo. Lão nói:

– Đạo của ngươi là gì?

Khổng trịnh trọng:

– Tóm gọn trong mấy chữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Lão cười vang:

– Có đến năm thứ, thứ nào cũng khó, cũng cao, sao gọi là khiêm cung? Những người dân chân lấm tay bùn làm sao học được cái Đạo ấy?

Khổng thanh minh:

– Đạo của tại hạ chỉ dành cho người quân tử, không dành cho kẻ tiểu nhân. Với người dân chân lấm tay bùn chỉ cần Lễ là đủ. Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên!

Lão hỏi:

– Tự nhiên sinh ra vốn bình đẳng, làm gì có phân biệt quân tử hay tiểu nhân? Lễ là phép tắc, trật tự, ngày nào cũng bắt dân phục lễ khác nào ngươi bắt dân phải đeo gông đi trên con đường hẹp. Còn Nhân, Nghĩa, Trí, Tín ngươi dành cho quan quyền khác nào mở đường cho chúng tự do nói dối, giả nhân giả nghĩa, lưu manh, lừa lọc? Vậy còn phụ nữ thì sao?

Khổng lúng túng không trả lời hết các câu hỏi, chỉ trả lời câu cuối cùng như cái máy:

– Phận nữ nhi thường tình!

Lão lại cười ha ha:

– Vậy mẹ của ngươi cũng là tiểu nhân? Vậy thì Lễ của ngươi nói kính cha thờ mẹ để làm gì? Bây giờ thì ngươi đi đâu?

Khổng tự hào thưa:

– Đi chu du thiên hạ để truyền Đạo. Nhà Chu suy, chư hầu nổi loạn, rất cần đạo trị – bình để thu thiên hạ về một mối, yên ổn vì đại cục…

Lão cắt lời:

– Nguy tai! Nguy tai! Nhà Chu suy đồi mà ngươi lại dùng phép tắc nhà Chu làm mẫu mực để gọi là Lễ? Nói thật, Đạo của ngươi cũng chỉ là con đường cụt. Lễ mà ngươi dạy đời ấy chỉ tạo thêm ra loại người đối với bề trên thì nịnh nọt uốn gối khom lưng, đối với kẻ dưới thì trịch thượng khinh người. Đạo trị – bình của ngươi chỉ có thể giữ thế ổn định tạm thời để bọn quan quyền tham nhũng. Dân vì hèn, vì sợ mà tạm bình, chứ quan đang nắm quyền thống trị thì sẽ tranh chấp hỗn loạn, cắn nhau như chó tranh cứt. Sao không để chư hầu nổi loạn mà làm lại từ đầu? Cái cây già mục ruỗng đã sắp chết thì dọn đi để trống đất cho cây con mọc lên, khư khư giữ lấy làm gì?

Nghe đến đấy, Khổng không khỏi nổi giận, mặt đỏ phừng phừng:

– Lão trượng không nên xúc phạm Thiên tử và kích động làm loạn. Tội phản nghịch đáng bị tru di ba họ. Nhưng thôi, coi như tại hạ chưa nghe gì. Vậy mạo muội hỏi, Đạo của lão trượng là gì?

Lão Tử vẫn khoan thai, tay đưa lên vuốt chòm râu trắng:

– Ta chỉ có một cái đầu trong muôn vạn cái đầu của thiên hạ. Ba họ nhà ta là ai ta còn chưa biết thì sợ gì họa tru di. Ngươi hỏi Đạo của ta ư? Đạo của ta là vô đạo, đường của ta đi là không có con đường. Đó mới là Đại Đạo.

Khổng ngơ ngác không hiểu gì. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác ấy, Lão lại ngửa mặt cười vang, đưa ngón tay vẽ một vòng thái cực vào không khí và nói:

– Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiên tự do nhưng có trật tự và cái lý của nó. Cao thì xa, thấp thì gần, dài thì yếu, ngắn thì mạnh, cương thì gãy, nhu thì dẻo, rỗng thì âm to, đặc thì câm… Mọi thứ trong trời đất gắn kết được nhờ khác biệt, không có chuyện giống nhau mà hợp lại được với nhau. Đạo của ngươi áp đặt mọi thứ theo trật tự như ngươi muốn và bắt buộc mọi thứ giống như nhau mà được à?

Bây giờ thì Khổng nghe như nuốt từng lời. Khổng hỏi:

– Đạo của lão trượng từ đâu ra vậy?

Lão nói:

– Từ trời đất, từ nhân gian mà ra. Ta học được từ đám dân đen mà Đạo của ngươi gọi là bọn tiểu nhân đáng khinh bỉ đấy!

Lão lại nhìn Khổng đang trố mắt mà tiếp:

– Ta nghe ngươi đi đến đâu, các vua chư hầu đuổi đến đó như đuổi tà. Có người bảo ngươi chỉ là kẻ cơ hội. Nhưng ngươi yên tâm, vài trăm năm sau Đạo của ngươi sẽ được trọng dụng vì nó sẽ là vũ khí bịp bợm tốt nhất. Người ta sẽ leo lẻo nói điều Nhân, điều Nghĩa, người ta luận về điều Trí, điều Tín, nhưng nói một đằng làm một nẻo. Và hiển nhiên, người ta sẽ tôn ngươi là Thánh để mê hoặc lòng người!

Đến đây, Khổng cúi sát người xuống chân Lão mà lạy ba lạy:

– Tại hạ lĩnh giáo và xin bổ sung vào Đạo của mình. Đời vẫn có quân tử và tiểu nhân, nhưng Đạo lớn nhất vẫn là lấy dân làm gốc ạ!

Lão lại bật cười đến văng nước bọt:

– Câu đó sẽ là câu mị dân lớn nhất! Dân nghe vậy sẽ vui vẻ làm trâu cày cho sự nghiệp của các quan chứ gì?

Nói đoạn, Lão vỗ mông trâu bỏ đi, không một lời chào. Con trâu họ lên một tiếng và ỉa một bãi to tướng trước mặt Khổng rồi đưa Lão băng qua cánh đồng. Khổng nhìn theo không chớp mắt. Kỳ lạ là con trâu đi đến đâu cỏ cây dạt ra đến đấy. Lão Tử nhẹ nhàng như bay giữa không gian vô tận rồi mất hút ở chân trời. Khổng lầm bầm, rằng Lão thật sự tự do, con đường của Lão thật sự là con đường lớn, không như ta cả đời tự đeo gông vào cổ và đi vào ngõ cụt mà không biết…

Tối hôm đó về nhà trọ, Khổng trằn trọc suốt ba canh rồi thiếp đi. Trong giấc mơ, Khổng thấy mình sống lừng lững đến 2000 năm, bao nhiêu người đến sụp lạy tôn Khổng thành Thánh. Khổng cứ ngồi bất động mà làm Thánh. Không biết là mộng ác hay mộng lành. Chỉ biết rằng khi tỉnh dậy, Khổng thấy cứt đầy quần. Bèn thay quần áo và gói ghém mọi thứ ô uế vào chiếc tay nải bằng nhung rồi một mình lặng lẽ bước đi trong đêm tối. Khổng ném tất cả xuống cầu và đứng nhìn dòng sông đen ngòm đang chảy xiết…

Sử sách chỉ viết có cuộc gặp gỡ Khổng – Lão mà tuyệt nhiên không kể lại đầu đuôi chuyện này.

(Nguồn:  NCCTV)

23 September 2021

Thảm Họa Di Dân Do Joe Biden Gây Ra Ngày Thêm Tồi Tệ

 Nguyễn Kim

Thứ Năm ngày 16/9 vừa qua, phóng viên Bill Melugin của Fox News đã đưa ra hình ảnh của hàng ngàn người Haiti tự do lội bộ qua sông, vượt biên vào Texas và sống chen chúc dưới gầm cầu Del Rio.  Thượng Nghị Sĩ (TNS) Ted Cruz cáo buộc “Đây là thảm họa do con người gây ra.  Con người đó chính là Joe Biden vì trước đó mấy ngày, dưới gầm cầu này chỉ có khoảng từ 700 tới 1,000 người nhưng không đầy một tuần, sau khi Joe Biden ra lệnh ngưng trục xuất thì nhiều ngàn di dân Haiti đã xuất hiện, ào ạt kéo tới biên giới, lội qua sông vượt biên vào Hoa Kỳ mỗi ngày.” 

Nhằm che đậy thảm trạng di dân trú ẩn dưới gầm cầu Del Rio, ngày 17/9 cơ quan Quản Trị Hàng Không Liên Bang (FAA) đã ra lệnh cấm phóng viên xử dụng máy bay không người lái để chụp hình di dân Haiti tại khu vực cầu Del Rio.  Trên nguyên tắc, lệnh cấm này có hiệu lực trong 2 tuần nhưng ngày hôm sau FAA đã thu hồi lệnh cấm, rất may là đất nước này chưa thể bị áp đặt theo đường lối của cộng sản.  Những cơ quan truyền thông lớn như ABC, NBC, CBS, CNN, New York Times, Washington Post, . . . . thường ca tụng Joe Biden, giờ đây tất cả phải nhìn nhận thảm họa di dân thực sự đã xảy ra và uy tín của Joe Biden đang đi xuống.  CNN cho rằng “Uy tín của Joe Biden bị giảm không phải chỉ vì vụ rút quân khỏi Afghanistan mà còn do những vấn đề chống coronavirus, kinh tế và di dân nữa.”

Thảm họa di dân Haiti tại biên giới

Trong một cuộc phỏng vấn Thống đốc Texas Greg Abbott nói: “Việc Joe Biden không quan tâm tới vấn đề bảo vệ biên giới đã tạo ra những hậu quả kinh khủng.  Thảm trạng hỗn loạn tại biên giới đã vượt ngoài tầm kiểm soát của Cơ Quan Hải Quan và Bảo Vệ Biên Giới (CBP).  Không như chính quyền Biden, tiểu bang Texas vẫn cam kết bảo vệ an toàn cho người dân.  Texas đã đóng cửa sáu địa điểm kiểm soát dọc theo biên giới để ngăn chặn đoàn người di dân bất hợp pháp tràn vào Texas.”   

Đời sống của người dân tại Del Rio đã bị xáo trộn từ khi xảy ra vụ 15,000 ngàn người Haiti cư ngụ bất hợp pháp dưới gầm cầu Del Rio, một cây cầu dài 2,035 feet nằm qua sông Rio Grande, phân chia ranh giới US và Mexico.  Del Rio là một thành phố rất nhỏ của Texas, có hơn 35,000 cư dân và diện tích khoảng 20.2 dặm vuông (52.3 cây số vuông.)  

Tin tức của Breitbart Texas cho hay “Người dân sống dọc theo sông Rio Grande gần cầu Del Rio đang rất lo lắng về vấn đề an ninh vì hơn 200 dặm biên giới bị bỏ ngỏ, nhiều vụ vượt biên vẫn tiếp tục xảy ra.  Lực Lượng Kiểm Soát Biên Giới đã không thực hiện những cuộc tuần tra nữa vì nhiều cơ quan thực thi pháp luật phải đổ dồn vào việc viện trợ nhân đạo cho di dân Haiti.”  Sau khi bị báo chí và nhiều nhà lập pháp Cộng Hòa chỉ trích, Bộ Nội An đã bắt đầu trục xuất người Haiti.  Paul Ortiz, Chỉ Huy Lực Lượng Kiểm Soát Biên Giới cho hay “Bộ Nội An đã trục xuất khoảng 3,000 dân Haiti, còn hơn 12,000 người nữa đang chờ làm thủ tục.”

Sáng Thứ Hai ngày 20/9, Bộ Trưởng Bộ Nội An Alejandro Mayorkas nói trong một cuộc họp báo:  “Người Haiti hiểu sai rằng biên giới được mở rộng, và dân Haiti đã cố gắng xâm nhập vào Hoa Kỳ một cách bất hợp pháp.  Hành động này rất nguy hiểm cho bản thân họ, và những bi kịch không đáng bị xảy ra.  Chúng tôi đang trục xuất dân Haiti theo Title 42.”  Title 42 là tiết mục nằm trong luật chống đại dịch Covid của Bộ Y Tế Liên Bang được ban hành dưới thời TT Trump vào tháng Ba năm 2020.  Tuy nhiên, Joe Biden đã không áp dụng luật này, và khi khủng hoảng xảy ra thì ông ta lại ra lệnh áp dụng.  Bản chất của Joe Biden là tiền hậu bất nhất, chỉ thị không rõ ràng, khi thì cấm, khi thì cho thực hiện nên đã gây ra nhiều thảm họa. 

Joe Biden đã giao trách nhiệm giải quyết vấn đề di dân cho Kamala Harris.  Bà ta cho rằng cần phải giải quyết tận gốc là thương thuyết ngoại giao với các nhà lãnh đạo của những quốc gia Guatemala, Honduras, El Salvador và Mexico.  Kamala Harris đã có một chuyến công du tới Guatemala nhưng đã bị thất bại, đã bị dân Guatemala đón tiếp với biểu ngữ “Go home” và Tổng Thống Guatemala Alejandro Giammattei tuyên bố “Khủng hoảng biên giới là do chính sách di dân của Joe Biden, ông ta đã mở biên giới, đã mời di dân tới Hoa Kỳ.”  Tổng Thống Guatemala nói thêm “Hoa Kỳ nên đưa ra những hình phạt nghiêm khắc hơn về nạn buôn người.”  

Chính sách “Remain in Mexico” bắt buộc di dân muốn được vào Hoa Kỳ phải chờ làm thủ tục tại Mexico đã giúp TT Trump thành công trong việc kiểm soát biên giới.  Tuy nhiên Joe Biden đã hủy bỏ chính sách này ngay trong những ngày đầu mới nhậm chức.  Quyết định sai lầm của Joe Biden đã khuyến khích di dân tìm cách đi vào Hoa Kỳ và khủng hoảng tại biên giới đã xảy ra.  Cuối tháng 8 vừa qua, Tối Cao Pháp Viện đã chỉ thị cho chính quyền Biden phải thi hành chính sách “Remain in Mexico”.  Bộ Trưởng Bộ Nội An Mayorkas hứa sẽ nghiêm chỉnh thực hiện.  Lời hứa của ông Bộ Trưởng này đáng tin không? 

Tham vọng thay đổi chính trị Hoa Kỳ của đảng Dân Chủ

Di dân lậu là vấn nạn của Hoa Kỳ từ nhiều thập niên nhưng dưới thời Joe Biden là tồi tệ nhất.  Theo tài liệu của Cơ Quan Hải Quan và Bảo Vệ Biên Giới, tính tới cuối tháng 7 vừa qua, đã có hơn 1 triệu di dân vượt biên vào Hoa Kỳ, đây là vấn đề tệ hại nhất chưa từng xảy ra.  Trong thời gian tranh cử, Joe Biden đã hứa sẽ ân xá cho hơn 11 triệu di dân bất hợp pháp đang sống tại Hoa Kỳ.  Đảng Dân Chủ biết rõ lời hứa của Joe Biden sẽ không dễ thực hiện nên họ đã tìm cách đưa vào dự luật ngân sách.  Trong một cuộc phỏng vấn trên Fox News, TNS Tom Cotton cảnh báo “Đảng Dân Chủ biết rằng đảng Cộng Hòa sẽ không bao giờ ủng hộ một lệnh ân xá lớn như vậy nên phía Dân Chủ đang cố gắng luồn lách, đưa điều khoản ân xá cho di dân bất hợp pháp vào một dự luật chi tiêu khổng lồ lên tới 6 ngàn tỷ dollars.”  Ủy Ban Ngân Sách Thượng Viện đã đưa điều khoản ân xá cho di dân vào dự luật ngân sách.  Hiện nay, với tỷ số 50/50, cộng thêm phiếu của Phó Tổng Thống, rất có thể đảng Dân Chủ sẽ thông qua được dự luật ngân sách, bất chấp sự phản đối của đảng Cộng Hòa. 

Dự luật ân xá sẽ giúp cho hơn 11 triệu di dân bất hợp pháp có quốc tịch.  Sau khi có quốc tịch, họ có thể bảo lãnh cho cha mẹ, anh chị em trong gia đình và quan trọng hơn, họ có quyền bỏ phiếu trong các kỳ bầu cử.  Đảng Dân Chủ muốn hợp thức hóa di dân lậu vì đa số sẽ bỏ phiếu cho đảng Dân Chủ.  Nhiều tiểu bang, thành phố theo Dân Chủ vẫn thường cổ động cho di dân bất hợp pháp được quyền bỏ phiếu. Viện Nghiên Cứu PEW cho hay:  “Đa số cử tri gốc di dân bỏ phiếu cho đảng Dân Chủ, chỉ có 4% ghi danh với đảng Cộng Hòa.”  Viện Nghiên Cứu này cho biết thêm “Chính quyền địa phương tại nhiều thành phố của tiểu bang California, Illinois, Maryland, New York,  Vermont và khu vực Washington, DC đang xem xét luật cho phép những người không phải là công dân được bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử địa phương như Hội Đồng Thành Phố, Hội Đồng Giáo Dục của các khu học chánh, . . .”   

Đảng Dân Chủ không cần thuyết phục cử tri mà chỉ cần thêm nhiều di dân. Lệnh ân xá cho di dân năm 2014 của Obama đã giúp đảng Dân Chủ có thêm nhiều triệu phiếu.  Di dân là cứu tinh của đảng Dân Chủ.

Sau một thời gian dài bênh vực cho Joe Biden, truyền thông thiên tả đã nhìn ra sự thật về khả năng lãnh đạo của Joe Biden.  Điển hình là Chủ Nhật vừa qua, trong chương trình “Meet the Press” trên NBC News, Chuck Todd nói “TT Joe Biden đang gặp khủng hoảng rất lớn về vấn đề tín nhiệm.  Bởi vì hầu hết mọi sự việc xảy ra đều hoàn toàn trái ngược với những gì Joe Biden nói.  Như việc rút quân tại Afghanistan, Joe Biden nói không có lộn xộn, không giống như Sài Gòn,  thực tế ra sao?  Joe Biden nói có thể hoàn tất việc chích ngừa coronavirus mũi thứ 3 từ 6 tới 8 tháng nhưng hiện tại tôi không chắc tất cả mọi người dưới 65 tuổi đã được chích ngừa.  Vấn đề biên giới thì hàng ngàn người phải sống dưới gầm cầu trong điều kiện tồi tệ tại tiểu bang Texas. Những lý do này làm mất uy tín của một Tổng Thống.”

Người dân Hoa Kỳ đã thấy rõ bản chất và con người thật của Joe Biden sau 9 tháng làm việc của ông ta.  Nếu cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2020 không bị gian lận thì người dân Hoa Kỳ đã không phải lo lắng cho một tương lai bất ổn, đối mặt với nhiều thử thách về kinh tế và an ninh quốc gia như hiện tại.

Kim Nguyễn
September 21, 2021
(Nguồn: Nhận Định Thời Cuộc)

21 September 2021

17 September 2021

Cười tí tỉnh: Lo xa

Người chồng hấp hối trên giường bệnh dặn dò vợ.

- Bây giờ anh đang gần đất xa trời, em có thể thú nhận về mối quan hệ với tay hàng xóm được không? Lúc này mọi thứ chẳng còn ý nghĩa gì song anh vẫn muốn biết sự thật trước khi nhắm mắt xuôi tay.

Cô vợ ngần ngừ một lúc rồi hỏi lại:

- Thế nhỡ anh không chết thì sao? 

Ngày 30 tháng Tư 1975: Một cái nhìn mới

Lời giới thiệu của GS TS Nguyễn Văn Canh:
Thân gửi quý anh chị:
Tôi forward bài viết của Tiến sỹ Nguyễn ngọc Tấn để quý anh chị đọc.
TS Tấn  có Luận án Tiến sỹ về Sử Học  tại Ðại Học Monash, Melbourne, Úc
Thân,
Nguyễn văn Canh

TS Nguyễn Ngọc Tấn
Tháng Tư 2009
 
Ðã gần 40 năm qua, người Việt Quốc-gia gọi biến cố 30-4-1975 là ngày quốc-hận. “Hận” này, theo tôi hiểu là “hận” mất nước.  Nhưng phong trào xét lại lịch-sử Chiến-tranh Việt-nam (CTVN) khởi đầu từ thập-niên cuối của Thế-kỷ 20 đã đánh đổ những sai-lạc về thực-chất của cuộc chiến do bộ máy tuyên-truyền của Ðảng CSVN và các thế lực quốc-tế chủ-trương.[1] Ngày nay có nhiều bằng-chứng cho thấy biến-cố 30 tháng 4 năm 1975 chỉ là một khúc quanh trong cuộc chiến quốc-cộng: Ngày 30-4-75 không những đã làm cho chính-nghĩa quốc-gia trở nên sáng chói mà còn báo hiệu giai đoạn mở đầu cho chiến thắng cuối cùng của những người Việt-nam yêu-chuộng tự-do chống lại chế-độ độc-tài Cộng-sản và chủ-nghĩa Cộng-sản vô thần, vô tổ-quốc và vô gia-đình.
 
1- Biến-cố 30 tháng 4 là ngày quốc-hận ?
 
Tại sao lại có biến-cố 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà phe Cộng-sản Việt-nam tiến vào thủ-phủ của người quốc-gia như chỗ không người? Xin trả lời ngắn gọn là: Vì người Mỹ đã đi đến quyết định là sự tiếp-tục tồn tại của một chính-quyền quốc-gia trên bán đảo Ðông-dương đã trực-tiếp phương hại đến quyền lợi và chính sách của Hoa-kỳ trong chiến-tranh lạnh.
 
Ðến nay có nhiều bằng chứng cụ-thể cho thấy người Mỹ đã quyết tâm hủy-hoại mọi cơ-hội chiến thắng Cộng-sản Hà-nội của phe người Việt quốc-gia. Sol Sanders một bình luận gia chính-trị quen thuộc tiết-lộ: “Washington đã chiến-thắng trong cuộc chiến tại Việt-nam cho đến khi Henry Kissinger và nội-các Nixon trong giai-đoạn “détente”, đã vận-động hậu-thuẫn tại quốc-hội Mỹ và Moscow, nhằm cắt đứt viện-trợ quân-sự cho Quân-lực VNCH sau khi đã biến guồng máy chiến tranh này lệ-thuộc hoàn toàn vào viện-trợ của Hoa-Kỳ.”[2] Trong khi đó Robert F. Turner, cựu Giám-Ðốc của Center for National Security, tiết-lộ trên tờ Washington Times rằng  “Quốc-Hội Hoa-kỳ đã hành động sai lầm vì đã nghe theo TNS Ted Kennedy (Massachusett) và Ðảng Dân-chủ, khiến chúng ta bị thất-bại bất ngờ trong khi chiến thắng đã gần kề.”[3] Thật ra đây chỉ là một cách chạy tội, đổ lỗi qua lại.
 
Các nhà làm chính sách của Hoa-kỳ đã chủ-trương rằng để cho Ðảng CSVN cai-trị Việt-nam, mối giao hảo giữa Hoa-kỳ và Trung-quốc sẽ được hàn-gắn lại và sẽ làm cán cân quân-bình lực lượng trong chiến tranh lạnh nghiêng hẳn về phía thế-giới tự-do. Peter Rodman, Phụ-Tá của TS Kissinger đã nhìn nhận rằng “Nixon/Kissinger đã bỏ Việt-nam để đổi lấy mối giao-hảo Hoa-kỳ - Trung-quốc và sau đó dùng Trung-quốc để chống lại Nga-sô.”[4]  Ðặc biệt, một tài liệu mật gồm 28,000 trang đã cho thấy TS Kissinger, một nhà làm chính-sách và cũng là một nhà thương-thuyết, đã sắp đặt để quân-đội Bắc-việt tiến vào chiếm miền Nam sau khi Ông đưa quân Mỹ rút ra khỏi miền Nam.[5]
 
Như vậy sự-thật về cuộc chiến quốc-cộng trong giai đoạn 1954-1975 là quân-đội quốc-gia không thua quân-đội cộng-sản.  Nhưng về mặt chính-trị, áp lực mạnh mẽ của quốc-tế vì muốn đưa Ðảng Cộng-Sản Việt-nam lên cai-trị toàn bộ nước Việt-nam, người Mỹ đã phá-hỏng mọi cơ hội bảo vệ tổ-quốc Nam Việt-nam của phe người quốc-gia. Ðể có thể tiếp-tục cuộc chiến một mất một còn với ÐCSVN, ngày 30 tháng 4 năm 1975 phe người quốc-gia bị bắt buộc phải tái-phối-trí chiến lược, lìa bỏ quê-hương. Chúng ta chưa mất nước vì những người tin tưởng vào chính nghĩa quốc-gia vẫn còn đó, quê-hương vẫn còn đó, đầu-não lãnh-đạo cuộc chiến vẫn còn đó.  Nguyễn Ánh chạy qua Xiêm rồi trở về dựng lại cơ-đồ.  De Gaulle cũng không để mất nước Pháp khi phải chạy qua Anh.  Như vậy có nên gọi biến-cố 30-4-75 là ngày mất nước không?
 
2- Ngày 30-4-1975: Ngày “Ô-Nhục” của tổ-quốc Việt-nam?
 
Kể từ ngày 30-4-1975, ÐCSVN lên nắm chính-quyền, mọi người dân Việt đã sống và chứng-kiến tận mắt một giai-đoạn lịch-sử đen tối nhục nhã chưa bao gìơ có trong lịch-sử dựng nước và giữ nước của Ông cha. Ðây là quan-điểm của những người Việt đang sống ở Việt-nam, của sinh-viên du-học, và của lớp trẻ lớn lên ở hải-ngoại trở về Việt-nam để kinh doanh.
 
Nhà-văn Trần-Như, người đang sống ở trong nước nhận định về xã-hội Việt-nam dưới sự cai-trị của ÐCSVN như sau:

“Giặc Tầu đô-hộ nước ta một ngàn năm không ai vong thân, không ai lẫn lộn căn cước. Giặc Pháp đô-hộ Việt-nam một trăm năm, dân Việt vẫn là Việt-nam. Giặc Hồ mang học thuyết cộng-sản vào cai-trị nước ta mới có 60 năm mà dân đã bị lẫn lộn căn cước và vong thân. Xã hội Việt-nam từ khi lập quốc cho tới nay chưa có thời nào suy đốn như thời Hồ.”[6]

Nói một cách dễ-hiểu, NHỤC là vì người dân trên đất Việt hiện-gìơ đang buộc phải chối bỏ văn-hóa và tước đoạt mất nhân-phẩm; họ đang phải sống như một con vật vì con vật không có văn-hóa và nhân phẩm. Còn tổ-quốc và đất đai đã bị ÐCSVN vừa bán vừa dâng hiến cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Trung-quốc.

Nếu “Văn-hóa còn dân-tộc còn”. Trong hơn 1000 năm Tầu đô-hộ “không ai vong-thân, không ai lẫn-lộn căn-cước” vì phong tục tập quán của Việt-nam sau lũy tre xanh vẫn được duy-trì, dân chúng đã không bị Tầu-hóa.  Nhưng năm 1954 tại miền Bắc, ÐCSVN đã phá-hủy toàn bộ lũy tre-xanh bao bọc hệ-thống làng-xã tự-trị để thành-lập những nông-trường tập-thể với máy cầy Liên-sô xây dựng xã hội chủ-nghĩa. Trong đó mọi người vô-sản ăn cùng, ngủ cùng, làm cùng. Lẫn lộn căn cước là vậy. Vong thân vì Cộng-sản coi con người chỉ là công cụ sản-xuất bị tước đoạt nhân-phẩm nên chỉ còn là con vật. Ðây là một lối-sống hoàn toàn xa-lạ đối với nếp-sống Việt-nam. ÐCSVN đã hủy-diệt văn hóa, lịch-sử, ngôn-ngữ cũng như linh-hồn Việt-nam để giúp Trung-quốc dễ bề nô-lệ hóa dân tộc. Văn-hóa mất dân-tộc mất. Chúng ta “Nhục” vì lịch-sử oai-hùng đối-kháng giặc phương Bắc của Ông-Cha đã bị kẻ nội-thù ÐCSVN “rước voi về” xóa bỏ tất cả.
 
Công dân Việt-nam Hà-Sĩ-Phu tóm-tắt kết qủa công-trình xây-dựng Xã-Hội Chủ-Nghĩa của ÐCSVN như sau: “Dân tộc phải đương đầu với một cuộc tổng khủng hoảng nhân cách! Xã hội đang lộn ngược do thang gía-trị lộn ngược. Chủ-nghĩa vô hồn tạo ra một khoảng trống ghê-rợn về văn-hóa, lý-tưởng và nhân cách.”[7]
 
Một sinh viên VN sang du-học tại Úc trong đợt đầu tiên khi Việt-nam vừa mở-cửa đổi mới, tâm-sự với tôi: “Chú ơi khi ra tới ngoài này, chúng cháu không dám nhận mình là người Việt-nam nữa!” Chính hậu-qủa cai-trị của một tầng lớp lãnh đạo thiển-cận giáo-điều đã làm sinh-viên này thấy xấu-hổ vì mình là người của một nước nghèo đói và chậm tiến nhứt thế-giới.
 
Những cảm nhận này của các du-học-sinh đã được Anderson Quách thấy tận mắt và kể lại rất đầu đuôi xúc-tích. Anderson là một cậu bé tị-nạn đến Mỹ lúc mới 5 tuổi và trở lại Việt-nam làm ăn vào tháng 10 năm 2007 với hy-vọng đầu-tư để phát-triển đất nước. Tuy nhiên sau 2 năm đắn đo tìm hiểu, Anderson mất 200,000 đô mà vẫn không thực hiện được mục đích của mình đành phải bỏ cuộc trở về Mỹ. Anderson nhận xét, lãnh đạo Việt-nam hiện nay không những bất-tài mà còn bất-tín và thiếu đạo-đức. Hậu qủa là một xã-hội băng hoại chờ đợi ngoại-nhân đến tiếp-quản. 

Về Hồ-Chí-Minh,

“Tôi nhận ra rằng vị anh-hùng thời còn đi học của tôi có rất nhiều bí mật xấu xa mà chế-độ đã dùng mọi thủ-đoạn để biến họ thành thần-thánh, giúp cho họ gĩư vững địa vị và quyền hành. Ðọc kỹ tiểu sử của Hồ Chí Minh sẽ tìm thấy một chính-trị-gia qủy-quyệt, nhiều mờ ám, dù nhìn ở bất cứ góc độ nào . . . Ông tự viết tiểu-sử để ca-tụng mình (Trần Dân Tiên), không nhìn nhận cha-mẹ, cũng như 12 đứa con rơi rớt từ các cuộc tình khắp thế-giới, viết đơn cầu xin thực dân Pháp với những lời tâng bốc trơ trẽn (lá thơ gởi Quan Toàn Quyền Pháp năm 1912), làm mật-vụ cho Nga, khoe là trọn đời độc-thân để phục-vụ tổ-quốc trong khi có ít nhất 3 người vợ. . .  Chuyện Ông thủ-tiêu không biết bao nhiêu là đối-thủ chính-trị có thể hiểu được vì Ông làm chính-trị kiểu Cộng-sản, chỉ biết theo gương bậc thầy như Stalin hay Mao. Nhưng tôi thật khó chịu khi phải đi khắp Việt-nam và nhìn những biểu-ngữ ca tụng “tấm gương đạo-đức của Bác Hồ”.
 
Anderson viết tiếp:

“Sau 1 năm ở Việt-nam, tôi hiểu được một sự thật căn bản của xã-hội: Tất cả mọi con người, mọi con số đều là gỉa-dối. Quan chức nói dối để giữ quyền hành bổng lộc; doanh nhân nói dối vì quan chức đòi hỏi; người dân nói dối vì nói sự thật sẽ làm mình đau-khổ rồi còn bị công-an bắt. Nói dối trở thành một hiện tượng tự-nhiên, như ăn uống, không ai suy nghĩ thêm về khía cạnh đạo-đức của hiện-tượng này.”[8]
 
Ngoài cái nhục không được làm người đúng với phẩm gía con người ở ngay trên đất nước của mình, dân-tộc hiện nay còn phải chịu cái nhục lớn nhất từ xưa đến nay, đó là “hồn-thiêng sông-núi” đã bị người cộng sản đặt lên “mâm” để trước bàn thờ cúng “Bác Mao”. Thay vì lãnh-đạo đất nước bảo vệ sự toàn-vẹn lãnh-thổ, thì ÐCSVN lại cúi-đầu nhận làm “thái-thú” cho ÐCS Trung-quốc; họ sợ mất Ðảng hơn mất nước.[9]
 
Nhân dân Việt-nam phản đối Trung-Cộng chiếm Hoàng-Sa và Trường-Sa lại bị chính-quyền của mình đàn-áp tàn nhẫn. Ðảng-viên Phạm Ðình Trọng viết:

“Ý thức dân-tộc bị coi nhẹ đến đau lòng còn biểu hiện ra trong việc làm trong hành-xử của nhà nước với dân. Thanh -niên sinh-viên học-sinh tập họp trước sứ-quán Trung-Hoa, ôn-hòa phản đối Trung-Hoa sát nhập quần-đảo Hoàng-sa, quần-đảo Truờng-Sa vào lãnh thổ Trung-Hoa. Ðó là nền văn-minh Lạc-Việt lên tiếng, là ý-thức dân tộc Việt-nam lên tiếng! Nhà nước dùng công-cụ bạo-lực trấn-áp tiếng nói chính đáng của nền văn-minh Lạc-Việt, trấn-áp ý-thức dân-tộc chính-đáng của nhân-dân . . .”[10]
 
Rồi vào tháng 12, 2007, khi bị Hồ Cẩm Ðào điện thoại trách mắng về việc để sinh-viên Việt-nam biểu-tình phản đối Trung-Cộng xâm chiếm lãnh-thổ, Tổng Bí-Thư Nông Ðức Mạnh liền thề-thốt rằng
“Vì tình hữu-nghị đời-đời bền vững với Trung-quốc, lãnh đạo Việt-nam sẵn sàng dâng-hiến tất cả.”
Có nghĩa là ÐCSVN đã sẵn-sàng làm nội-ứng tay-sai biến Việt-nam thành một chư hầu của Trung-quốc với những bước đi cụ thể như: dâng hiến 789 cây-số vuông đất-đai thuôc Cao-bằng và Lạng-sơn; bán 11,000 cây-số vuông trên biển và chủ-quyền của hai quần-đảo Hoàng-sa và Trương-sa; giao dự-án khai thác quặng “bo-xit” trên Tây-Nguyên cho Tầu và 20000 công nhân người trung-quốc; cho phép người trung-quốc tự do đi lại ở Việt-nam từ Lạng-sơn đến mũi Cà-mâu (không cần hộ chiếu).
 
Nếu qúi độc-gỉa chưa thấy rõ cái “nhục” mà Trung-cộng cố tình gây ra cho dân Việt, tôi xin nhắc lại mấy trường hợp sau đây. 

Dân ta đánh-cá trong hải-phận Việt-nam bị tầu Trung-cộng đuổi đi sau đó còn bắn chết người và đánh chìm tầu của người Việt. Ðặc biệt lúc ấy chiến-hạm Việt-nam chỉ đứng nhìn như không có chuyện gì xẩy ra. Sau đó Trung-cộng nói đấy là sự thỏa thuận chung.[11] 

Vào ngày 29 tháng 4 năm 2008, khoảng 200 thanh niên Trung-cộng mặc đồng-phục Olympic 2008 với cờ quạt ngang nhiên kiêu hãnh diễn-hành tại thành-phố Hồ-Chí-Minh. Trước tòa Ðại-sứ Trung-quốc ở Hà nội, có khoảng 30 thanh-niên Trung-quốc biểu-tình hô khẩu hiệu “Hoàng-sa và Trường-sa là của Trung-quốc”; không có chuyện gì xẩy ra. Nhưng khi sinh-viên Việt-nam biểu tình chống Trung-cộng chiếm Hoàng-sa và Trường-sa thì lại bị nhà cầm quyền Việt-nam đàn-áp bắt bớ. Không nhục sao?

Mới đây ÐCSVN còn cho dịch ra tiếng Việt cuốn sách của Trung-Quốc, “Ma Chiến-Hữu”, ca-ngợi quân-đội Trung-quốc anh-hùng trong trận chiến Việt-Trung năm 1979. Sách dịch ra tiếng Việt lập tức được cho phổ biến khắp Việt-nam. Trong khi đó sách Việt ca-ngợi anh-hùng VN và chống Trung-quốc lại bị thâu-hồi? Báo-chí và dân-chúng không được phép dùng chữ “Trung-cộng” để chỉ “Trung-quốc”! Như vậy có nhục không?
 
Bằng chứng viện dẫn cho thấy biến-cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu ngày ÐCSVN đưa dân chúng Việt-nam vào một cuộc sống ô-nhục, ngang với loài vật. ÐCSVN lãnh-đạo, xóa căn cước Việt của người dân, đưa đất nước vào vòng nô-lệ Trung-cộng. Một chuyện chưa từng xẩy ra trong lịch-sử nước Việt. Nếu người dân Ðức coi bức tường Bá-Linh là bức tường “Ô-Nhục”, dân-chúng Việt-nam phải gọi ngày 30-4  là ngày “quốc-nhục” mới thật đầy-đủ ý-nghĩa và đúng.
 
 3- Biến-cố 30-4-1975: Một khúc quanh trong cuộc chiến quốc cộng
 
Nghị-trình duy nhất và vô cùng cấp-bách của cộng-đồng tị-nạn Việt-nam tại hải-ngoại hiện gìơ chính là “Cái nhục của chậm tiến và cái họa nô-lệ Tầu-cộng” của Việt-nam dưới sự cai-trị của ÐCSVN. Trong ý-nghĩa này, ngày “quốc-nhục” tiếp-tục nhắc nhở những ngừơi Việt-nam yêu-chuộng tự-do rằng: Cuộc-chiến “quốc-cộng” vẫn còn đang tiếp-diễn. Và hiện-nay cán-cân quân bình của cuộc-chiến đã nghiêng hẳn về phe người quốc-gia. Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ÐCSVN đã để lộ ra bộ mặt thật của họ khiến cho chính-nghĩa của phe quốc-gia trở-nên mạnh-mẽ và sáng chói hơn bao gìơ hết.
 
Ðúng như tướng Do Thái Ông Moshe Dayan nhận định trong chuyến thăm viếng Nam Việt-nam: “Nếu muốn thắng cộng-sản, Miền Nam phải thua Cộng-sản trước đã.”  Trong khoảng từ 1930 đến 1975, Cộng-sản Việt-nam đội lốt Chủ-nghĩa Dân-tộc để đánh lừa người Việt yêu nước và dư-luận thế-giới. Nhưng từ 1975 đến nay họ đã hiện nguyên hình là một đảng say mê quyền-lực, một đảng cướp. Họ thi hành triệt để giáo điều Mac-xit Lenin-nit để củng cố quyền-lực và ăn cướp bóc-lột của dân-chúng qua các chính-sách cải-cách ruộng đất, kiểm-kê và đánh tư-sản, trăm hoa đua nở, chế-độ lý-lịch “đào tận gốc tróc tận rễ”, hợp tác xã sản-xuất, nông-trường tập-thể, làm theo chỉ-tiêu hưởng theo nhu cầu, vân vân . . .
 
Cái chính-nghĩa dân-tộc mà ÐCSVN dùng làm bình-phong để lừa-gạt những người Việt-nam yêu-nước từ trước đến gìơ đã bị chính lãnh-tụ Hồ-Chí-Minh vô tình đạp đổ. Trong lúc hấp hối Bác Hồ đã thổ-lộ với các đồng-chí trong Bộ Chính-Trị là mình sẽ đi gặp “Bác Stalin và Cụ Lênin!” “Dân-tộc” gì mà khi sắp chết lại không muốn gặp Lê-Lợi, Hưng Ðạo là các anh-hùng dân tộc, hay Ông Bà tổ-tiên của mình mà lại đòi về với mấy người Nga? Vì thế ÐCSVN đã mất cái thế nhân-dân. Chính-quyền và cán bộ hiện nay đều chân trong chân ngoài để tháo chạy vì tổ-chức của ÐCSVN đã hoàn toàn phân-hóa rữa nát, mất định-hướng, nơm nớp lo sợ diễn tiến hòa-bình.
 
Chính lời trăn-trối của Hồ Chí Minh phủ-nhận chính-nghĩa dân-tộc và trao cái thế nhân-dân lại cho phe quốc-gia. Rồi “cái họa nô-lệ Tầu và cái nhục không được làm người” do hậu qủa cai-trị của ÐCSVN từ 1975 đến nay đã trao thế chủ-động trong cuộc chiến quốc-cộng vào tay của phe người quốc-gia. Tóm lại thực-tế “tự hủy-diệt” của phe Cộng-sản đã mở đường đưa phe quốc-gia vào thế thượng-phong và chiến thắng cuối cùng.
 
Thêm vào đó, Cộng-đồng người Việt hải-ngoại hiện nay như Cựu Ðại-sứ Lâm-Lễ-Trinh phân tích có một tiềm lực kinh tế, chính-trị, giáo-dục và trí-tuệ hơn hẳn tổ-chức chính-quyền của nhà nước XHCN Việt-nam. Ví-dụ như tổng-sản-lượng quốc-gia của Việt-nam vào năm 2001 là 14.5, tỉ trong khi đó lợi-tức của 3 triệu người tị-nạn là 15 tỉ.[12] Số tiền của hải ngoại gởi về giúp bà con hiện nay đã lên đến gần 7 tỉ tức là xấp-xỉ 1/2 tổng sản lượng của cả nước. Ðiều đáng lưu-ý là trong số 3 triệu người này lại có một lực lượng chuyên-viên lỗi-lạc trong mọi lãnh vực lên đến 300,000 người. Theo Ông Lâm Lễ Trinh, đây là một con số thống kê chưa từng thấy tại các nước ÐNA.
 
Cuối cùng, một điều rất hiển nhiên cần lưu-ý đó là thời-cơ và thế ngoại vận của phe người Việt quốc-gia đang làm cho chế-độ độc-tài CSVN tuyệt-vọng. Về thời cơ chẳng hạn, cuộc cách mạng tin học và trào lưu “toàn-cầu-hóa” hoàn toàn không thuận lợi cho các chế-độ độc-tài. Vì thế tiến trình dân chủ-hóa Việt-nam sẽ không thể nào đảo ngược được. Phe người Việt quốc-gia, khởi đầu với nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa tại miền Nam Việt-nam do Ông Ngô Ðình Diệm lãnh đạo, chủ-trương xây dựng một chế-độ dân chủ đích-thực.
 
“Xã-hội khép kín” của ÐCSVN đã bị cuộc cách-mạng tin-học và cơn-bão “toàn cầu hóa” mở tung ra và còn đang tiếp-tục mở rộng hơn nữa với những phong trào đòi dân-chủ ở trong nước bắt tay làm đầu-cầu cho hải-ngoại tiến vào mở trận-đánh cuối-cùng: ÐCSVN gọi đó là “Diễn tiến Hòa-bình”. Bây giờ chính là thời cơ của phe yêu-chuộng tự-do và độc-lập thực-sự của dân-tộc vì cả thế-giới hô hào dân-chủ-hóa.
 
Thế thượng phong của hải-ngoại về mặt trận ngoại-giao lại càng rõ rệt hơn. Trong thời chiến, Nam Việt-nam bị Hà-nội cấu kết với các cường quốc để tạo ra những phong-trào phản-chiến trên thế-giới, vận-động mua chuộc đại-diện dân-cử tại các quốc-hội trên thế-giới và những cuộc trao đổi quyền-lợi đội lốt các hiệp-định Geneve 1954 và Paris 1973. Ngày nay chính người tị-nạn đang dùng “gậy ông đập lưng ông” trả lại ÐCSVN những gì họ đã làm trước đây. Các lãnh đạo và đại-diện ngoại-giao của Việt-nam hiện nay mỗi khi thăm viếng để xin-xỏ một điều gì ở các quốc-gia có người tị-nạn, đều phải trốn chui trốn nhủi không dám đi vào cửa chính. Người Việt quốc-gia ở hải-ngoại hiện nay ngoài các hoạt-động về kinh-tế xã-hội kỹ-thuật giáo-dục, đã bắt đầu tích-cực tham gia vào các cơ chế dân-cử sẵn-sàng dùng các phương thức dân-chủ hiến định để đập tan những hành động gian manh của CSVN tại các quốc gia này. ÐCSVN đang ở vào thế “tứ bề thọ địch”!
 
4- Thay lời kết
 
Việc ÐCSVN bán đất bán biển và làm tay sai cho chủ-nghĩa bành-trướng của Trung-Cộng đang đẩy mạnh và làm cho trận-chiến cuối cùng giữa hai phe “quốc và cộng” bùng nổ sớm hơn người ta tưởng. Nhờ vào kỹ thuật tối tân của tin học, những gì mà ÐCSVN cố tình dấu-diếm đã được thế-giới bên ngoài, chính xác hơn là cộng-đồng người Việt tự-do hải ngoại, biết đến. Ví-dụ bí-mật về vụ bán biển được gởi ra quốc-ngoại từ email <tranmong . . . > ngày 20 tháng 8 năm 2008 gồm cả bản Anh-ngữ lẫn Việt-ngữ và đã được Ðại-Tá Phạm Bá Hoa trích dẫn như sau: “. . . Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Chủ-tịch Trần Ðức Lương sang THCS gặp Chủ-tịch Giang Trạch Dân và hai bên cùng ký hiệp ước. Theo đó VNCS bán một phần biển cho THCS với gía 2,000,000,000 mỹ kim (2 tỉ), và THCS trả cho Việt-nam dưới hình thức đầu-tư . . . . .”[13] Nhờ đó, hải-ngoại mới hay biết sự việc và đang vận dụng mọi tài nguyên sẵn có để bổ túc tiếp cứu cho những gì mà kẻ-sĩ trong nước đang bị kềm-kẹp không thể phản-ứng hữu-hiệu được.[14]
 
Một cây viết trong Việt-nam (có lẽ cũng là 1 đảng viên cao cấp) với bút-hiệu “Người Buôn Gío” tung lên “net” bài viết báo động mất nước. Ông cho biết vì những khó-khăn dưới chế-độ CS, kẻ-sĩ đành bó tay, không thể làm tròn sứ mạng “thất-phu hữu-trách”. Theo Ông, việc ÐCSVN gạt bỏ mọi can-ngăn tự quyết-định để THCS khai thác quặng bo-xit trên Tây-Nguyên chính là muốn mở đường cho người Tầu đào “mồ chôn nước Việt”. Ông cho rằng vấn đề Hoàng-sa và Trường-Sa rồi cũng thế:

“Nếu Tây-Nguyên đã là phần của người Trung-quốc làm ăn, thì việc tranh cãi về Hoàng sa - Trường sa có thể đoán kết-qủa là vô-nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà khi các nhà sử-học Bắc-kinh được tài-trợ quy-mô, bài bản để sưu-tập tài-liệu hay chế-biến lịch-sử để chứng minh chủ-quyền các hải-đảo đó là thuộc về họ. Chính-phủ Việt-nam vẫn bình chân như vại, một số nhà tâm-huyết do điều kiện hạn-chế chỉ sưu-tầm tìm hiểu trong khả năng của mình, kinh phí tự-túc do bản thân bỏ ra. Thậm chí việc Hoàng sa-Trường sa không được báo chí nhắc đến là khó khăn cho những trí-thức và học-gỉa trong qúa-trình tìm tòi tài-liệu, vô hình chung biến hai quần-đảo này thành đề tài bí-mật không được bàn tán công khai.”[15]
 
Nhờ chủ-trương tài-trợ quy mô của Bắc-kinh cho các nhà sử-học, THCS đã có được bài bản để hỗ-trợ về mặt công-pháp cho âm mưu bành-trướng của họ tại biển Ðông. Ví-dụ họ sửa lịch-sử, viết sách nói rằng Hoàng-sa Trường-sa là của Trung-quốc rồi đưa vào trường học để dậy cho học-sinh Việt-nam; họ vẽ ra bản đồ lãnh-hải 12 hải-lý để bao gồm các quần đảo nói trên; họ đặt ra tên mới cho hai quần đảo này là Huyện Tam-sa và thuộc về tỉnh Hải-nam của Trung-quốc; họ xây cất các hạ-tầng cơ-sở kể cả phi-đạo và hải-cảng; họ đem những giống cây lục địa ra và trồng ở đó; quân-đội cũng được điều động ra đồn trú. Về mặt tuyên-truyền họ bắt đầu lên-tiếng tuyên bố Chủ-quyền của Trung-quốc trên các hòn-đảo này; họ cho công bố bản-đồ; cho người biểu-tình ủng-hộ; ra lệnh cho ÐCSVN bịt miệng những người nói ngược lại. Ví-dụ như “Văn-thư đề ngày 7-12-07 cấm sinh-viên biểu-tình của Phó Hiệu-trưởng Ðại-học Công-nghệ Hà-nội, Ông Hà Quang Thụy, Bí Thư Ðảng-ủy . . . . Văn thư đó còn đòi các thủ-trưởng phải góp-phần vào việc ngăn-chận biểu-tình.”[16]
 
Báo-chí hải-ngoại và “internet” là một nguồn thông-tin dồi-dào về các tin tức liên-quan đến cái xã-hội bị bưng-bít ở Việt-nam. Tuy-nhiên họ không được đào-tạo để làm những công-việc bài-bản quy-mô như các học-gỉa và sử-gia Trung-quốc đã làm để phục-vụ cho âm-mưu bành-trướng của ÐCSTQ chiếm đoạt Hoàng-sa và Trường-sa của Việt-nam. Ðây là một vấn đề lớn-lao vì nó liên-quan đến cuộc tranh-chấp quyền lợi giữa hai quốc-gia. Nếu hai bên không thể giàn-xếp ổn-thỏa bằng con đường ngoại-giao, vụ-việc sẽ phải được giải-quyết tại tòa-án quốc-tế. Vì thế để có thể lập được một hồ-sơ pháp-lý cho một vụ án quốc-tế là chuyện của những chuyên-gia công-pháp quốc-tế, những nhà thương-thuyết ngoại-giao lão-thành, những sử-gia học-gỉa uyên-thâm, mới mong thực-hiện được một căn bản pháp-lý vững-chắc để đánh bại đối-phương. Ngoài kiến thức chuyên-môn còn phải có tài-nguyên dồi-dào và thời-gian để thực-hiện. Xin lấy một ví-dụ, Trung-quốc công-bố một bản-đồ trong đó bao-gồm hai quần-đảo tranh chấp. Cùng lúc đó họ trưng bầy hình ảnh khai quật được một số đồ-gốm đời nhà Minh trên đảo Trường-sa chẳng hạn. Muốn cãi lại họ chúng ta phải có đủ bằng chứng là người Việt-nam xuất hiện tại đây trước đời Minh.
 
Ðể đáp-ứng nhu-cầu này, vào khoảng giữa năm 1995 một tổ-chức đã được thành-lập tại hải-ngoại với cái tên là Ủy-Ban Bảo-Vệ Sự Vẹn-Toàn Lãnh-Thổ (BVSVTLT). Vì nhu cầu đòi-hỏi, năm 2008 tổ-chức phải lập thêm một đơn vị đặc-trách về vấn-đề Hoàng-sa và Trường-sa tên là Ủy-Ban về Hoàng-sa và Trường-sa. Ủy-Ban BVSVTLT gồm các luật-gia, các gíao-sư về công-pháp, các sử-gia và học-gỉa uyên-bác. Họ đang hy-sinh đáp lại tiếng kêu cứu của núi-sông làm tròn trách nhiệm “thất-phu hữu-trách”. Người sáng lập ra tổ-chức này là một Ông gìa 73 tuổi. Trước đây, ở Việt-nam, Ông là Phụ-tá Khoa-Trưởng Luật-khoa, Giáo-sư chính-trị và công-pháp. Sau 1975 là học-gỉa tại Hoover Institute, nghiên-cứu về “Cách-mạng, Chiến-tranh và Hòa-bình, Ðồng Giám-đốc Dự-án Oral Life History tại Viện Nghiên-cứu Ðông Á Ðại-học U.C. Berkeley, California.
 
Thành-qủa mà Ủy-ban này đã thực-hiện được trong năm 2008 là một Bạch-Thư về Hoàng-sa và Trường-Sa. Và cũng trong năm 2008 này họ đã hoàn-tất được một hồ-sơ pháp-lý về Hoàng-sa và Trường-sa, sau 13 năm dài nghiên-cứu sưu-tầm. Hồ-sơ này sẽ giúp cho chính-quyền hậu cộng-sản của Việt-nam đưa vấn-đề tranh-chấp chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng sa và Trường sa giữa Việt-nam và Trung-quốc ra trước tòa-án quốc-tế.
 
Hiện nay Ông đang dùng hết thì gìơ hưu-dưỡng đi khắp năm châu để diễn-thuyết cho đồng hương và “giáo-dục” các nhà làm chính-sách ở các nước sở tại về những việc phi-pháp mà ÐCSVN đang tiếp tay thực hiện âm-mưu bành-trướng của Trung-Cộng, trong đó có vụ Hoàng-sa Trường-sa và hậu-qủa của nó. Ông gìa đó chính là Giáo-sư Tiến-sĩ Nguyễn Văn Canh.
 
Ðây là một vấn-đề lớn có liên-quan đến lợi-ích của toàn dân toàn quân, vượt lên trên lợi-ích của các phe phái cho nên những buổi nói chuyện của GS Nguyển Văn Canh đã được đồng-hương khắp nơi trên thế-giới hân-hoan đón-nhận. Ngoài ra sự ra đời của Ủy-ban BVSVTLT là sự lên tiếng của hải-ngoại đáp-lại lời kêu cứu của thức-giả và dân-chúng ở trong nước. Phải chăng đây là một sơi dây nối kết trong và ngoài nước và mọi thành-phần người Việt-nam yêu nước lại với nhau?  Theo tôi, chính cái “nhục nô-lệ và họa mất-nước mà ÐCSVN đã gây ra đã khiến hưng-vận của nước Việt-nam tái xuất-hiện.
 
Nên gọi ngày 30-4-75 là ngày quốc-hận hay là ngày quốc-nhục? Có một điều chắc chắn đó là ngày đánh dấu giai đọan mở đầu chiến-thắng cuối-cùng của người Việt không cộng-sản.  

Chú thích:

10 September 2021

Nâng cấp Ô-sin, truyện vui

1.

Đã một tuần ăn chực nằm chờ trong bệnh viện, nhưng tôi vẫn không thể nào thích nghi được với không khí ở đây. Từ khoa điều trị của mẹ muốn xuống căng tin phải đi qua lối vào nhà xác. Mỗi lần hai mẹ con dìu nhau đi, tôi cứ phải cố dấn bước cho nhanh và mắt nhìn thẳng tắp. Để bảo vệ chút mạnh mẽ còn lại mà không đổ gục.

Nhà tôi, mẹ góa con côi, nếu tôi cũng quỵ, sẽ chẳng còn ai làm chỗ dựa cho mẹ. Hết một tuần, tất cả kết quả xét nghiệm đều đi đến chung một kết luận: Khối u của mẹ lành tính nhưng bắt buộc phải phẫu thuật. Nỗi vui mừng chưa kịp nhen nhóm thì số tiền dự tính phải chi trả đã tàn bạo bóp nghẹt trái tim tôi lần nữa. 

Tôi có bán răng, bán tóc, bán máu, bán cả nhà cũng không thể đủ một nửa con số trăm triệu đồng. Huy động tất cả người thân, bạn bè quen biết được vỏn vẹn hai chục triệu. Cây vàng mẹ định để dành làm của hồi môn cho tôi phải bán đúng lúc giá chạm đáy cũng chỉ gom thêm được bốn chục triệu nữa. Con số sáu mươi triệu đồng còn lại cứ như cái thòng lọng treo lơ lửng trên đầu tôi. Không có nó, mẹ không thể phẫu thuật được. Thời gian càng kéo dài, xác suất an toàn sẽ càng giảm.

Chưa bao giờ tôi lâm vào tình trạng quẫn trí như lúc này. Sao các đại gia không vào hành lang bệnh viện mà tìm tình một đêm? Năm trăm đô, hai trăm đô cũng được. Tôi cao 1m68, ba vòng đủ chuẩn, mặt xinh, da trắng. Tôi sẽ bán tôi ngay để đủ tiền phẫu thuật cho mẹ.

 **

Mỗi buổi sáng, bác sĩ điều trị cho mẹ đi qua thăm khám đều hỏi han về tình hình chuẩn bị của chúng tôi. Tôi chưa bao giờ khóc trước mặt bác sĩ, nhưng sắc mặt tôi trông còn thảm hơn cả khóc, nên bao giờ anh cũng ái ngại quay đi. Phòng bệnh của mẹ có mười hai người, chen chúc trong sáu cái giường cá nhân.

Buổi sáng hôm thứ sáu, bác sĩ điều trị của mẹ đi vào, mang theo mười hai cái phong bì, bảo là của các nhà hảo tâm gửi tặng. Mười một cái đều chỉ có một triệu đồng, riêng cái của mẹ tôi là năm triệu đồng, kèm theo tín hiệu "bí mật". Có nhiều tiếng khóc cùng lúc sụt sùi. Bác sĩ thấy ngại sau đó mà đi ra ngay, còn bảo tôi cuối giờ lên khoa gặp.

Ai đã từng vào chăm bệnh nhân trong viện mới cảm nhận được hết cái thấp thỏm trong câu hẹn gặp với bác sĩ. Thường là vì tình trạng bệnh tiến triển không tốt bác sĩ điều trị mới phải gặp riêng người nhà. Cũng có khi vì phí điều trị tự nhiên lại đội lên quá cao. Với người giàu mà nói, đây không phải là khó khăn gì ghê gớm. Nhưng với dân nghèo như chúng tôi, mức độ sát thương của nó như các cư dân mạng hay nói, đúng là "vô đối".

Cho nên, suốt cả ngày hôm ấy tôi hết đi ra lại đi vào, giơ tay xem đồng hồ liên tục, đến mức chính mẹ cũng bị lây cảm giác căng thẳng. Khi kim giờ chỉ đúng số năm, tôi lao như tên bắn qua hành lang bệnh viện. Ngồi trong phòng của anh rồi, hơi thở vẫn chưa điều hòa nổi, lòng bàn tay tôi túa mồ hôi lạnh toát.

Không có tiên liệu xấu nào cả. Anh chỉ cho tôi thêm một con đường sống. Tôi phải cấp tốc mua bảo hiểm cho mẹ, trước thời gian phẫu thuật. Anh thậm chí còn giới thiệu người có thể giúp tôi đẩy nhanh và hợp thức hóa các thủ tục. Tôi trào nước mắt cám ơn. Anh lại lúng túng: Cũng không giúp được gì nhiều đâu, vì ca mổ của mẹ em là tự nguyện, nên bảo hiểm chỉ trả giúp một phần viện phí. Giảm được khoảng 20% tổng chi phí là cùng! Tôi lẩm nhẩm trong óc, 20% của 120 triệu nghĩa là hơn hai chục triệu. Nghĩa là nỗi lo của tôi giảm xuống chỉ còn hơn ba chục triệu nữa thôi. Một triệu đồng lúc này cũng quý, nói gì đến hơn hai chục triệu.

Nhưng một tuần sau đó tôi vẫn không biết làm cách nào để xoay ra hơn ba chục triệu đồng. Túng quá hóa liều. Tôi một lần nữa gõ cửa phòng bác sĩ điều trị chính. Trong tay là một hợp đồng đã soạn sẵn, ký sẵn. Tôi mạo muội đề nghị anh bảo lãnh cho ca mổ của mẹ tôi. Tôi biết điều này là bất khả thi. Trong bệnh viện lúc nào cũng có người nghèo. Mạng ai cũng quý. Ai cũng muốn nhờ bác sĩ bảo lãnh. Mà bác sĩ thì không là thánh.

Nhưng tôi có một niềm tin mơ hồ: Hình như anh để ý đến tôi. Có để ý mới đưa phong bị dày hơn những người khác. Có để ý mới nói giúp việc làm bảo hiểm, không bác sĩ nào rỗi hơi lại đi mách bệnh nhân cách lách luật rắc rối và có phần trái quy tắc như vậy?

Trong hợp đồng thảo sẵn, tôi đề nghị làm giúp việc không công cho gia đình bác sĩ trong 3 năm, bảy ngày trên tuần, ba giờ mỗi ngày. Không ngờ, anh nhìn tờ giấy rồi cười, đẩy lại phía tôi không nói gì. Cuống quá, tôi nói thẳng tưng mà không hề đỏ mặt: Hay là anh mua em đi, toàn quyền sử dụng trong một năm. Em cam tâm tình nguyện!

Lần này, anh đơ ra một lúc, mặt đỏ bừng. Tôi gần như tuyệt vọng, thiếu chút nữa thì nằm lăn ra phòng anh ăn vạ. Một lúc sau anh bảo tôi chuẩn bị, thứ ba sẽ mổ cho mẹ. Tôi gần như bay ra khỏi phòng anh, bất chấp nỗi ê chề bán thân vô tiền khoáng hậu kia. Trước mắt tôi chỉ còn viễn cảnh mẹ sẽ được phẫu thuật, sẽ khỏi bệnh, khỏe mạnh trở lại. Tôi làm gì còn người thân nào khác trên đời này!

Ca phẫu thuật của mẹ rất thành công. Lúc này tâm trí tôi mới trở lại trạng thái bình thường. Nghĩ đến cái hợp đồng vẫn bỏ lại trong phòng anh, không khỏi ngượng ngùng. Nhưng mãi vẫn không thấy khổ chủ đòi nợ. Gần ngày mẹ ra viện, tôi lần nữa vác mặt mo đi đề nghị người ta "nghiệm thu" mình.

2.

Tôi ngoài ba mươi tuổi. Bác sĩ của một bệnh viện lớn. Độc thân nhưng hình như không có duyên lắm với phụ nữ. Lần đầu nhìn thấy em đã rung rinh. Em rất đẹp, lại hiếu thuận. Chăm chút mẹ từng li từng tí. Làm việc trong bệnh viện lâu rồi, tôi đã chứng kiến không ít cảnh các ông bố bà mẹ cô đơn vò võ điều trị nội trú, toàn bộ việc chăm sóc phó mặc cả cho điều dưỡng viên, con cái một tuần tới điểm danh một lần đã là nhiều.

Thế nên, hình ảnh của em ngày ngày chăm chút mẹ tận tâm tận lực lại khiến tôi để tâm. Mẹ em phải phẫu thuật, lần lữa mãi mà không thu xếp đủ tiền, tôi cũng có chút động lòng. Mẹ tôi năm nay ngoài bảy mươi tuổi. Bố tôi mất đã năm năm, sở thích còn lại duy nhất của bà là chăm tôi và làm từ thiện. Lương hưu của bà không đáng là bao, ngày ngày bà may áo, đan len, rồi cứ gom lại từng tí một, thành một chục là hớn hở mang cho trẻ con nghèo.

Trước đây, mẹ cũng hay mang vào viện tôi nhưng từ khi tôi bảo: Bệnh nhân thường họ không thiếu mấy thứ mẹ cho, cái họ thiếu nhất là tiền, thế là mẹ chuyển mục tiêu sang mấy xã ngoại thành và các xã vùng núi theo chường trình của Hội Chữ thập đỏ... Gần đây, mẹ vận động được cả các cô chú và bạn bè ở nước ngoài gửi tiền về làm từ thiện, thỉnh thoảng được một cục, mẹ lại tất tả đem cho.

Tháng trước, mẹ đi đường bị xe tông gãy chân, thế là phải nằm một chỗ, không đi lại được. Cục tiền của mẹ, tôi phải làm nhiệm vụ mang vào viện phân phát. Thực lòng, tôi không quen làm việc này nhưng trước sức ép của mẹ, đành chia ra các phần bằng nhau, đem chia cho phòng điều trị của mình, năm phút là xong. Riêng phong bì của mẹ em, tôi cố tình nhét thêm bốn triệu đồng. Cũng như muối bỏ bể mà thôi!

Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được em lại đề nghị "bán mình" cho tôi với cái giá như vậy. Nhất thời không biết phản ứng thế nào nên cứ ngồi ngậm hột thị. Nhìn gương mặt tuyệt vọng của em, tôi biết mình chẳng còn lựa chọn nào khác. Thế là rút tiền túi ra giúp bệnh nhân. Cũng chẳng phải vì lòng tốt như mẹ tôi, mà là vào cái thế không thể rút chân ra được nữa.

Ngày mẹ em ra viện, em lần nữa nhắc lại chuyện phải "thanh toán" hợp đồng. Tôi lại lần nữa bị ép phải nói rằng: "Cứ coi như nợ anh, khi nào có tiền thì trả!". Không ngờ em "chốt hạ" ngay: Thế này vậy, nếu anh đã chê em thì làm theo phương án thứ nhất đi! Em biết mẹ anh đang ốm, cũng cần người giúp đỡ. Từ tuần sau, sau giờ làm em sẽ đến nhà anh giúp việc nhà. Em biết địa chỉ rồi, anh đừng ngại!

Em làm Ôsin cho nhà tôi được đúng sáu tháng thì mẹ tôi một hai đòi nâng cấp em làm con dâu. Đến nước này tôi mà còn vờ vịt lập topic "có nên siết nợ bằng cách cưới con nợ hay không?" thì thật nhảm!!!

(internet)

08 September 2021

Kinh nghiệm chết hụt

Bs. Hồ văn Hiền

(Near Death Experience, NDE)
....who would fardels bear,
To grunt and sweat under a weary life,
But that the dread of something after death,
The undiscovered country, from whose bourn
No traveller returns, puzzles the will,
And makes us rather bear those ills we have,
Than fly to others that we know not of...” 

(...có mấy ai cam chịu mang gánh nặng,
Rên rỉ đổ mồ hôi trong cuộc sống nhọc nhằn
Chẳng qua chúng ta sợ cái gì đó sau khi chết,
Vùng đất chưa khám phá, biên cương chốn ấy
Chưa khách lữ hành nào trở về, làm ý chí ta rối ren,
Và làm ta thà gánh những đau khổ đang mang
Hơn là tìm đến những nổi khổ ta không biết...)
Shakespeare

Phần đông chúng ta cũng mường tượng tin rằng sau khi con người chết, một phần nào đó vẫn còn tồn tại: "Chết là thể phách, còn là tinh anh" (Kiều). Theo văn hoá dân gian Á Đông, người chết sẽ qua Thập điện Diêm Vương là 10 ông vua cai quản cõi âm, ở đó có gương Nghiệt Kính Đài là kính soi lại tất cả hành vi của người chết lúc còn trên dương thế. Các linh hồn có tội nặng bị trừng phạt nặng nề (như mổ bụng, moi tim, nung vạc dầu..), đi qua cầu vồng trơn trợt và rơi xuống cho thuồng luồng cá sấu ăn thịt cũng như chó ngao hai bên cầu cắn xé. Còn những linh hồn được đi đầu thai kiếp tới phải qua Vong Đài (Đài quên), uống Canh Quên lãng của Mạnh Bà để quên hết kiếp trước. 

Cho nên dù nói theo Shakespeare là "chưa khách lữ hành nào về" từ cõi chết, hoặc nói theo văn hoá chúng ta là phải uống thuốc lú mới được trở về đầu thai kiếp khác, quá khứ chỉ còn ghi chép trên tảng đá Tam Sinh Thạch bên dòng sông quên (Vong Xuyên) (1). Không mấy ai còn biết trong "giấc ngủ của cái chết ấy, không biết giấc mơ nào đến lúc chúng ta lột bỏ tấm thân xác vô thường này"

...For in that sleep of death, what dreams may come,
When we have shuffled off this mortal coil? 

Y khoa đặt cơ sở trên sự quan sát khách quan, dựa vào những biến cố sinh lý, vật lý và hóa học để mô tả những sự việc xảy ra, nên đối với y giới nghiên cứu thế giới bên kia đương nhiên là một chuyện cực kỳ khó khăn, và những sự kiện thu thập được đương nhiên không phải là những sự kiện được quan sát trực tiếp, thu thập một cách khách quan, mà trái lại chỉ là những sự ghi chép lại những gì nhân chứng kể lại, một thời gian dài hoặc ngắn sau khi kinh nghiệm chết hụt được trải qua.

Người Việt Nam chúng ta cũng thường được nghe nói đến hiện tượng những người gia đình tưởng đã chết sau một thời gian sống lại. Phong tục người Việt chúng ta cũng giữ xác chết một thời gian trước khi tẩm liệm để tránh đừng chôn một người chưa chết hẳn, tuy không còn phát hiện nhịp tim hoặc hơi thở và trên quan sát thông thường được coi như đã chết.

Kinh nghiệm chết hụt

Kinh nghiệm chết hụt là kinh nghiệm của một số người lúc họ tỉnh lại sau một thời gian được ghi nhận như là đã chết. Với những kỹ thuật tân kỳ hiện nay của khoa hồi sức, một số đáng kể bệnh nhân vì bệnh nặng hoặc vì thương tích trầm trọng đáng lẽ đã chết luôn sau đó được cứu sống lại, nghĩa là có một khoảng thời gian nào đó tim họ đã ngừng đập, phổi ngừng thở, và đôi khi não điện đồ (EEG) không còn đo được nữa, và đứng trên phương diện lâm sàng, họ được bác sĩ xem như đã chết.

Một số người trong nhóm này thuật lại cuộc hành trình của họ và nếu đem so sánh tường thuật của nhiều người khác nhau, chúng ta thấy có những điểm tương đồng được lập đi lập lại từ người này qua người khác. Một người chết hụt điển hình sẽ kể lại rằng anh ta thấy mình rời khỏi xác, ở trên cao quan sát cảnh tượng bác sĩ và y tá săn sóc cho mình, đôi khi đi thăm những bạn bè thân quyến đang chờ đợi ở phòng bên cạnh và đôi khi biết được cả ý nghĩ thầm kín của họ. Sau đó anh ta sẽ nghe một tiếng động lớn và được dẫn dắt đến một đường hầm, hoặc một khoảng trống đến một nơi ánh sáng chói lòa. Nơi đây anh ta được gặp lại những bạn bè thân thuộc đã chết trước đây, và đến gặp một Ðấng Tối Cao, chiếu hào quang sáng ngời. Tất cả cuộc đời anh ta sẽ được kiểm điểm lại trong khoảnh khắc và anh ta có dịp "tự kiểm" toàn bộ cuộc sống của mình. Sau đó có "người" cho anh ta biết anh ta phải trở về lại hạ giới, và tuy luyến tiếc vô cùng khung cảnh rực rỡ yên bình của thế giới mới anh ta cũng phải trở về với xác cũ của mình.

Ðôi khi anh ta được cho biết trước một số việc sẽ xảy ra sau này mà cả mấy chục năm sau anh ta mới thấy xảy ra đúng như đã báo trước.

Tuy hiện tượng những người trở về từ cõi chết đã được nghiên cứu trước đây và được nhắc tới ngay từ
thời trung cổ, hiện tượng này chỉ được nghiên cứu nhiều và coi như một đề tài y khoa sau khi bác sĩ Raymond Moody công bố kết quả nghiên cứu của ông và đặt cho hiện tượng này cái tên "Near death experience" viết tắt là NDE, tạm dịch là "Kinh nghiệm chết hụt “(2). (Một số nơi dịch là “Trải Nghiệm Cận Tử"). Sau này ông thành lập “Hội Quốc Tế Nghiên Cứu Kinh Nghiệm Chết Hụt” (International Association for Near-death Studies hay IANDS) và tập san chuyên môn về hiện tượng này (Journal of Near-Death Studies).

Năm 1982 viện Gallup chuyên về thăm dò dư luận khám phá rằng có khoảng tám triệu trong tổng số 234 triệu người Mỹ từng có trải qua kinh nghiệm chết hụt loại này, có nghĩa là cứ chừng hai chục người thì đãcó một người đã từng trải qua (3.4%). Theo IANDS, tỷ số này có thể cao hơn; theo khảo sát ở Mỹ, Úc và Đức, có chừng 4-15 % dân số từng có trải nghiệm NDE.

Gần đây hơn, lại thêm một trường hợp NDE nổi tiếng và gây nhiều tranh luận. Eben Alexander, một bácsĩ giải phẫu thần kinh, đột nhiên bị mắc một chứng viêm màng não cực hiếm tấn công hệ thần kinh của ông, làm cho phần não bộ kiểm soát tư duy và cảm xúc bị ngưng hoạt động hoàn toàn. Lúc mà bác sĩ điều trị đi đến quyết định ngưng mọi chữa trị, bịnh nhân mở mắt tỉnh dậy. Sau đó ông nhớ lại cuộc du hành vào "The Core" (trung tâm ) của vũ trụ tựa như trở về trong bụng Mẹ, bên cạnh cái nhau nuôi dưỡng mình (“a fetus floats in the womb with the silent partner of a placenta”, p.47) và được một thiên thần hướng dẫn đến gặp "The Creator", “God”, The Source, “Om” (Tạo hoá, Chúa, Nguồn; "Om" là âm thanh tác giả nghe văng vẳng liên hệ với hình ảnh của Chúa), nơi tối như mực nhưng lại đầy ánh sáng. "Om" cho tác giả biết là không phải có một mà có nhiều thế giới, ở trung tâm các thế giới khác nhau này là Love ("Tình thương"), và Evil (Ác) hiện diện trong mỗi thế giới nhưng cần thiết vì không có Ác thì không có chọn lựa tự do ("free will"). Cõi trần gian (terrestrial realm) chúng ta sống gắn bó chặt chẻ với vô số vũ trụ, chiều kích cao hơn (higher dimensions), tiến hóa xa hơn thế giới chúng ta và từ những thế giới này, có thể tiếp cận thế giới chúng ta bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu; tuy nhiên người trần chúng ta thì không biết và không hiểu họ được.

Ông viết cuốn sách best seller "Proof of Heaven, A Neurosurgeon's Journey into the Afterlife" (“Bằng chứng về Thiên đàng, hành trình của một bác sĩ giải phẫu thần kinh vào cõi sau cuộc đời”).
 
Kinh nghiệm chết hụt trong nhi khoa

Trong nhi khoa người ta cũng để ý tới hiện tượng này. Bác sĩ Melvin Morse ở Ðại Học Y khoa Washington nghiên cứu trường hợp của 11 trẻ em từ 3 đến 16 tuổi đã từng bị chết hụt, các trẻ này hoặc đã bị đứng tim (cardiac arrest) hoặc hôn mê (coma) kéo dài và sau đó tỉnh lại được nhờ các phương tiện hồi sức tân tiến. Sáu em kể lại kinh nghiệm hồn rời khỏi xác, năm em nhớ lại được đi vào một vùng tối tăm, bốn em nhớlại một đường hầm và ba em kể lại mình được quyết định trở về trần thế, nghĩa là nhập lại vào xác.

Nói chung kinh nghiệm chết hụt thường gồm những điểm sau đây, tuy nhiên ta nên nhớ rằng trong mọi trường hợp cá biệt chỉ một số yếu tố hiện diện mà thôi.

1. Cảm giác thấy mình đã chết, nếu trong nhà thương người bệnh thấy bác sĩ y tá đang cố gắng hồisinh cho mình hoặc tuyên bố mình đã chết.

2. Cảm giác bình yên tột độ (extreme peace and quiet) trong hầu hết mọi trường hợp. Chỉ có chừng cảm thấy kinh hoàng hoặc cảm giác rơi vào địa ngục.

3. Tiếng động lớn, ào ào, hoặc tiếng chuông reng lớn.

4. Cảm giác mình rời khỏi xác (out-of body experience).

5. Ðôi khi bệnh nhân kể lại hồn mình đi ra khỏi phòng bệnh và thăm những nơi khác và sau đó lúc tỉnh dậy kể lại những điều trông thấy.

6. Ðường hầm tối tăm với một nguồn ánh sáng ở cuối đường hầm; đôi khi là một cái cầu thang. Không thấy nói đến cầu vồng như trong các câu chuyện của ta. Tại các nước ngoài Tây phương, “đường hầm ít được nhắc tới.

7. Những nhân vật lộng lẫy hào quang gồm cả những bạn bè bà con đã chết trước đây, cũng như những khung cảnh lộng lẫy đầy ánh sáng. Những "người" này "nói chuyện" với nhau mà không cần ngôn ngữ thường mà dùng một loại thần giao cách cảm (telepathic, non-verbal way).

8. Sau khi gặp bạn bè thân thuộc, người bệnh được đối diện với một Ðấng Tối cao đầy ánh sáng, người Thiên Chúa giáo thường cho là mình gặp Chúa Giêsu, người Phật giáo thì gặp Phật, người Hồi giáo thì gặp Allah. Ðiểm này thay đổi theo bối cảnh văn hóa, tôn giáoliên hệ.

9. Duyệt lại toàn bộ cuộc sống (life review): Trong khoảnh khắc từng chi tiết của suốt cuộc đời người được duyệt lại cùng với tác dụng tốt xấu của mọi động tác trên cuộc sống của người khác (tương tự như Nghiệt Kính Đài của phương Đông). Ðấng Tối cao hầu như rất bao dung và thông cảm và không có vẻ gì phán xét, tuy nhiên đây có vẻ như là hình thức tự kiểm bao gồm hết cuộc đời của mình và đa số những kẻ đã từng trải qua chợt thấy sự quan trọng của lòng thương người ("love", có lẽ là chữ “nhân” của chúng ta) và của sự hiểu biết (knowledge)

10. Sau đó người bệnh thấy mình bay lên một cõi cao xa, tương tự như kinh nghiệm các phi hành gia nhìn xuống trái đất.

11. Ða số cảm thấy thích thú trong thế giới mới này đến nỗi họ không muốn trở lại trần thế, và đôi khi còn tức giận khi thấy mình phải trở về. Tuy nhiên phần đông chỉ thất vọng trong chốc lát và sau đó tự cho là may mắn được cứu sống trở lại nơi trần tục.

Trên đây chỉ là những kinh nghiệm được kể lại do những người đã từng chết hụt. Những người này có kể lại trung thực hay không, ngôn ngữ có diễn tả đúng những gì đã xảy ra hay không, chúng ta không thể nào biết được.

Hai giả thuyết:

Hiện tượng sinh lý học hoặc tâm lý học. Giả thuyết chính cho rằng hiện tượng này là một loại ảo giác (hallucination) không có thật gây ra do nhữngbiến đổi sinh lý lúc người bệnh thập tử nhất sinh, như mức thán khí CO2 (carbon dioxide) trong máu quá cao, mức oxy trong máu nuôi dưỡng óc quá thấp (hypoxia), hoặc do ảnh hưởng của thuốc mê nhu ketamine, những chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitters) như serotonin, endorphine, một số thuốc "psychedelic drugs" tác dụng trên hệ thần kinh như như LSD, pilocarpine, mescaline. Những hiện tượng như bất tỉnh (unconsciousness), cảm giác thoát ra ngoài cơ thể (out -of- body experience), thấy chớp sáng có thể xảy trong những trường hợp trên. Hoặc một số người cho đây là một sự hồi tưởng của những kỷ niệm lúc mỗi người trong chúng ta chào đời, chui từ lòng mẹ, đi qua một đường hầm vào một nơi đầy ánh sáng. Một cách giải thích khác là do bị thiếu oxy, những phần ngoại biên của võng mạc tuần tự ngưng làm việc, thu nhỏ lại thị trường (visual field) và làm người bịnh có cảm giác nhìn thấy một đường hầm.

Một phản biện khác cho rằng đường não điện đồ phẳng không có nghĩa là bộ não đã ngưng hoạt động. Theo bác sĩ Mark Cohen, chuyên viên về kỹ thuật hình ảnh thần kinh, lúc mà các hoạt động não không đồng bộ trong một hiện tượng gọi là "event-related desynchronization", các hoạt động có thể được phát hiện trên PET scan, functional MRI, hoặc CT scan trong lúc EEG thì lại trải thành đường thẳng. (3)

Nhiều nhà thần kinh học đã ghi nhận những điểm tương đồng giữa NDE và tác động của một loại động kinh gọi là “co giật từng phần phức tạp” (complex partial seizures) làm suy giảm một phần ý thức (consciousness) và thường khu trú ở các vùng não cụ thể (thùy thái dương/temporal lobe) ở một bán cầu não. Bắt đầu bằng một aura, dấu hiệu báo trước, cơn động kinh có thể làm cho thấy sự vật lớn hoặc nhỏ một cách bất thường; nếm, ngửi thấy mùi hoặc cảm giác về cơ thể một cách khác thường; cảm giác từng chứng kiến việc đang xảy ra (deja vu); phi nhân cách hóa (depersonalization) cảm giác như mình ra ngoài cơ thể và quan sát chính mình; hay những cảm giác ngây ngất (ectatic feelings). Loại động kinh cho cảm giác ngày ngất này còn được gọi là động kinh Dostoyevsky, theo tên nhà văn Nga cuối thế kỷ 19 Fyodor Dostoyevsky, người bị chứng động kinh nặng có nguồn gốc ở thùy thái dương. Nhân vật chính trong tiểu thuyết “Người đần độn” Hoàng tử Myshkin, mô tả “khoảnh khắc khi cả trái tim, trí óc và cơ thể dường như thức dậy với sức sống và ánh sáng; tràn ngập niềm vui và hy vọng, và mọi lo lắng như bị cuốn đi vĩnh viễn; ... dường như là một trong những sự hài hòa và vẻ đẹp ở mức độ cao nhất”...“Tôi sẽ cống hiến cả cuộc đời mình cho khoảnh khắc này.”(4)

Hơn 150 năm sau, các nhà giải phẫu thần kinh có thể tạo ra những cảm giác ngây ngất như vậy bằng cách kích thích điện một phần của vỏ não được gọi là insula ở những bệnh nhân động kinh được cấy điện cực vào não của họ. Kích thích những vùng chất xám các nơi khác có thể tạo một số cảm giác tưng tự như NDE. (Thủ thuật kích thích não này giúp xác định nguồn gốc của các cơn co giật để có thể phẫu thuật cắt bỏ.

2)Hoặc chúng ta có thể giải thích đây là một hiện tượng tâm linh, hồn rời khỏi xác và về bên kia thế giới, qua một thế giới khác. Nếu thật vậy, đây là một điều phấn khởi, vì thế giới bên kia có vẻ không tối tăm lắm. Thật vậy, cuốn sách thứ ba của bác sĩ Moody nói về vấn đề này mang tựa đề: "Ánh sáng phía bên kia" (The Light Beyond).

Bác sĩ chuyên khoa tim Pim van Lommel là một trong những người nghiên cứu tiên phong về hiện tượng chết hụt. Năm 2001 ông công bố một khảo cứu căn cứ trên 344 trường hợp tiềm năng và ngẫu nhiên (nghĩa là chờ những trường hợp mới sẽ xảy đến sau khi các nhà nghiên cứu bắt đầu cuộc khảo sát, không phải nghiên cứu bằng cách lựa chọn những trường hợp đã từng xảy ra). Đây là những người từng bị tim ngừng đập (cardiac arrest) trong một số bịnh viện Hoà lan (Dutch) trong nhiều năm. Kết quả có 18% những bịnh nhân này báo cáo sống qua "kinh nghiệm chết hụt". Điều này có nghĩa là các hiện tượng thần kinh sinh lý lúc não bộ bị thiếu oxy và ngưng hoạt động không giải thích được tại sao chỉ có một thiểu số người có hội chứng kinh nghiệm chết hụt. Bài báo kết luận: "Vì còn thiếu bằng cớ khác chứng minh những thuyết giải thích NDE, thuyết cho rằng ý thức và ký ức nằm giới hạn trong não bộ cần được bàn cãi, dù thuyết này chưa bao giờ được chứng minh là đúng. Làm thế nào mà người ta có thể trải nghiệm một ý thức sáng suốt ở ngoài cơ thể trong khi đó thì não bộ bị chết lâm sàng, với não điện đồ (EEG) trở thành một đường phẳng? (nghĩa là không đo được điện của não bộ). Với lại, lúc người ta bị tim ngừng đập, thì 10 giây đồng hồ sau khi ngất xỉu, EEG đã thành đường phẳng rồi?”

“Hơn nữa, người mù còn còn mô tả những cảm nhận được xét là đúng với sự thật sau khi họ trải nghiệm hiện tượng ra khỏi cơ thể như là một phần của NDE. NDE đẩy ra xa hơn những giới hạn của tư tưởng y học về bề rộng của ý thức con người, và tương quan giữa bộ óc và tâm trí.

Một lý thuyết khác cho NDE có thể là một tình trạng ý thức đang biến chuyển, trong đó, bản chất, tri giác, và cảm xúc hoạt động độc lập với cơ thể đang bị bất tỉnh, nhưng vẫn giữ khà năng nhận thức mà không cần cảm giác (không nhờ đến các giác quan, chú thích của HVH )”. (5)

Bác sĩ Lim van Lommel giải thích NDE bằng hiện tượng ông gọi là "non-local consciousness" ("ý thức không - cục bộ"). Ông nghĩ rằng có thể não bộ chúng ta chỉ là một máy nhận (receiver) trung gian tiếp nhận tín hiệu từ một ý thức (non-local consciousness) bao quát hơn, ngoài não bộ chúng ta, và không cần bộ óc, không cần ngũ quan cũng có khà năng cảm nhận được. Đối với Lim van Lommel, não bộ chúng ta nối liền với ý-thức-không-cục-bộ này tương tự như cách máy vi tính, điện thoại thông minh, máy truyền hình nối với ("interface") với mạng internet đang bao phủ toàn cầu bằng sóng điện từ. Cuốn sách mới nhất (2011) của ông mang tựa đề "Consciousness beyond life" (Ý thức bên kia sự sống). Trong cách lý giải ý thức (consciousness) không căn cứ trên vật thể (não bộ của con người), chúng ta có thể hao hao thấy quan niệm siêu hình Phật giáo và của Tân Khổng học thời Đường và Minh của Trung quốc: lý [Li,理] thuần khiết, được bao bọc bởi khí [Qi, 氣] để thành hiện thực, từ đó các cảm xúc và xung đột nảy ra..(6)

Dù sao, mục đích của bài này không phải để cổ võ cho một niềm tin cá nhân nào đó. Khoa học không có tham vọng giải thích bản chất của ý thức và lý do của các sự việc mà chỉ ghi nhận chúng xảy ra như thế nào. Ý nghĩa của hiện tượng này ra sao có lẽ mọi người trong chúng ta một ngày nào đó cũng sẽ biết bằng kinh nghiệm cá nhân của mình; cho đến lúc đó chúng ta chẳng làm gì hơn là suy gẫm cho chính mình.

Bác sĩ Hồ văn Hiền
Ngày 29 tháng 10, năm 2013
Ngày 14 tháng 7, năm 2021

07 September 2021

Tuổi Già Ơi, Ta Chờ Mi!

Xin cho tôi được khoe, tôi tuổi Thân, năm nay vừa tròn 78 tuổi, đủ già để nói về tuổi già, đủ lớn để chia xẻ, lắng nghe tâm sự của người già, đủ trưởng thành để hiểu, để tâm tình về tuổi già tha hương!

Sanh lão bệnh tử là chuyện thường tình nào ai thoát được. Ai cũng phải trải qua sống già, nào ai thoát khỏi chết. Nhưng sống già thế nào, chết sao cho bình an, hợp tình, hợp lý…là chuyện không dễ dàng gì?

Tuổi già tha hương tính sao đây? Già yếu sống tại nhà với con cháu hay vô Viện dưỡng lão, chết chôn hay thiêu, chôn ở đâu, thiêu thờ phụng ra sao….để khỏi phiền lòng người thân, đừng tạo gánh nặng lo toan cho con cháu?

Sống ở nhà với con cháu có ổn không? Cuộc sống bận rộn, đứa đi làm, đứa đi học. Còn dâu, rể nữa, có hợp không, có thuận thảo chấp nhận không?

Còn Viện dưỡng lão thì sao? Tường trình mới đây của Uỷ ban Hoàng gia khiến mọi người già lạnh xương sống. Nào thiếu dinh dưỡng, nào bạo hành, nào chăm sóc cẩu thả , thuốc men bừa bãi … Tính sao đây? Sống những ngày cuối cùng già yếu bệnh hoạn với con cháu thì bất ổn, vào Viện dưỡng lão thì bất an!

Chuyện 'bất' như ý, cười ra nước mắt về những mảnh đời tha hương ở tuổi xế chiều kể sao cho hết.



Võ Đại Sinh – ĐS15

Tôi sống gần phòng tập thể dục và hồ tắm công cộng, ở đó tôi quen thân với một cụ già … tròm trèm tuổi tôi. Một buổi vui miệng, tôi hỏi “Ê mình trên dưới 80 rồi, vậy ông tính chuyện hậu sự chưa?”. “Chưa, chuyện sống còn chưa ỗn, lo chi chuyện chết”. Rồi ông ngừng tập …nhẹ nhàng tỏ bày tâm sự cuộc sống hiện tại với nhiều nước mắt của vợ chồng ông.

Ông bà mang hai con nhỏ chấp nhận hiểm nguy, vượt trùng dương đến Úc ở tuổi 40. Không một chữ Anh lận lưng, không một nghề bỏ túi, ông bà quần quật ngày đêm trên máy may, vừa kiếm sống vừa lo cho con học hành tới nơi tới chốn. Nhờ trời, hai con đỗ đạt nên người và ông bà cũng mua được một căn nhà khang trang an hưởng tuổi già ở vùng đông người Việt.

Tuổi già tưởng đâu an nhàn với niềm vui tràn ngập khi đứa con trai đầu lòng bác sĩ thành hôn với người bạn gái đồng nghiệp cùng làm việc tại bệnh viện. Hãnh diện và vui sướng vô cùng. Và trong niềm vui đó, ông bà dễ dàng đồng ý, theo đề nghị của vợ chồng son thành đạt, bán đi căn nhà đang ở, góp vốn mua một nhà lầu ở vùng cao cấp hơn cho xứng với địa vị của hai con.

Quyết định vì con đó đã đưa ông bà xa dần với cuộc sống êm đềm trong căn nhà vùng bình dân cũ. Bây giờ thì trong nhà phải đi đứng nhẹ nhàng …”để nhà con ngủ”, không được mở đèn sáng sớm hoặc quá khuya “sáng quá nhà con không ngủ được“, không nên tiếp khách quá “tạp nhạp”… Thôi thì đủ điều ràng buộc lại không thể lấy tiền lại rút lui. Hai vợ chồng già giờ chỉ biết bất lực cam chịu đắng cay!

Vậy tài sản suốt đời tần tão, dành dụm… cuối đời tính sao cho ổn đây? giao cho con cái quá sớm thì khó sống được thoải mái với rể, dâu với lối sống mới bừa bãi, không đủ lễ độ không dễ gì người già chấp nhận được … còn giao trễ quá thì vào các viện dưỡng lão con cái sẽ thiệt mất ít nhiều phần được thừa hưởng … cũng đáng tiếc !

**

Tôi có người bạn già gần một năm nay, mùa dịch COVID không gặp… Chúa nhật vừa qua, đến chùa Quang Minh dự lễ cầu siêu cho một đồng môn vừa quá vãng, tôi thật bất ngờ thấy di ảnh của anh đang chễm chệ ở chùa.

Tôi quen anh từ năm 1970, khi cùng thụ huấn ở quân trường Thủ Đức. Khi tôi đến Úc, được gặp lại thì cuộc sống của anh đã ổn định lắm rồi. Mấy năm gần đây, sau khi hưu trí, anh thường ghé thăm tôi vào những buổi trưa trên đường đi đem cơm cho đứa con gái đang mướn phòng trọ học lấy Tiến sĩ ở Đại học La Trobe khá xa. Anh phải vất vả mang cơm cho con hàng ngày….vì “con học theo yêu cầu của ba, học cho ba, ba phải lo ". Tôi thắp nén nhang thành kính cúng anh, với lời cầu mong anh được toại nguyện với bằng Tiến sĩ con gái anh đã học và đạt được … cho anh!

Hầu như mọi người già tha hương, chấp nhận hiểm nguy, bỏ quê cha đất tổ ra đi chỉ vì tương lai con cái. Và tương lai là gì, nếu không phải lo cho các con học hành đến nơi đến chốn. Do vậy việc thành công trên đường học vấn của các con là lo nghĩ luôn canh cánh bên lòng cha mẹ. Làm sao đây để đừng xảy ra tình cảnh dở khóc dở cười, đẹp lòng cha mẹ mà lòng con không thích, tương lai con bất như ý!

**

Anh Nguyễn Văn Nhành, người bạn đồng môn vong niên của tôi, đã ra đi khá lâu rồi. Nhớ hồi anh đang hấp hối tại bệnh viện Melbourne, tôi được Thầy Tâm Phương, lúc đó còn một Đại Đức trẻ, báo tin và đưa tới thăm anh lần cuối. Đứng ngay đầu giường bệnh, tôi thấy anh lúng túng ú a, ú ớ, khi Thầy Tâm Phương hỏi “Có Thầy và anh Sinh ở đây, anh cho Thầy biết anh quyết định khi mất, chôn hay thiêu?”. .. mà tan nát cõi lòng .

Cuối cùng rồi khi mất, tang lễ anh đã được trang trọng cử hành và anh đã được mai táng tại nghĩa trang Fawkner theo như di nguyện trước lúc lâm chung.

**

Góp nhặt vụn vặt vài ba câu chuyện vui buồn của tuổi già …chỉ với ước mong chia xẻ ít nhiều với những người bạn già đang ở ngưỡng cửa lựa chọn hướng đi cuối cùng .

Phần tôi, sau khi nghe tôi lập đi lập lại chuyện vui buồn đời già tha hương, vợ tôi phán, “Em nhỏ hơn anh 9 tuổi, anh đừng tính toán gì hết, sống già ở nhà hay vào viện dưỡng lão, chết chôn hay thiêu… tới đâu em tính tới đó". Với lại, còn chuyện nầy nữa, dù vẫn ở nhà của tôi, đã sang tên cho con cái gì đâu… mà sao tôi vẫn cảm thấy e dè, không còn được tự do thoải mái với vợ con… như khi còn trẻ, tôi đành tính luôn:

“ Ngày sau dầu có ra sao nữa
Mà có ra sao…cũng chẳng sao “

Thôi kệ!

Mong rằng “góc nhìn người già tha hương“ này sẽ đón nhận được nhiều kinh nghiệm quý báu… để người già chúng ta cùng chia xẻ, học hỏi để cùng có được một đời hưu thanh thản, một kết thúc nhẹ nhàng, bình an.

Mong lắm thay!

Võ Đại Sinh