27 October 2023

Tưởng Nhớ Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Nhân kỷ niệm 60 năm ngày ông bị sát hại
Phạm Văn Duyệt

Mới đó mà đã 60 năm Tổng Thống Diệm từ giả cõi đời. Hình ảnh một nhà lãnh đạo khiêm cung hiền hậu trong những lần thăm viếng đồng bào khắp mọi miền đất nước, với giọng nói ôn tồn niềm nở vẫn còn văng vẳng đâu đây. Mỗi lần chợt nhớ những giây phút cuối cùng đầy nghiệt ngã của Ông trên chiếc thiết vận xa mà mấy ai không khỏi chạnh lòng buồn bã xót xa cho số phận oan khiên của Vị Tổng Thống yêu nước thương dân.

Từ hằng chục năm qua, đã có rất nhiều tác giả viết về Ngô Đình Diệm. Lắm người bênh vực ngợi ca, ngược lại thành phần chê bai phê phán cũng không ít.

Bài viết này xin mạo muội ghi lại vài nhận định bao quanh cuộc đời của Tổng Thống Diệm, như một nén hương lòng tưởng nhớ công ơn của Người sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam. Trong tận lòng thành của một công dân tầm thường, xin cầu nguyện cho Ngài và Bào Đệ bình an trên Nước Thiên Đàng.  

1. Thành quả của Tổng Thống Diệm: 

Tháng 6/1954, Ông Diệm chấp nhận lời mời của Cựu Hoàng Bảo Đại trong cương vị Thủ Tướng.
Đứng trước muôn ngàn thử thách, Ông đã dốc sức làm việc suốt ngày đêm để ổn định tình hình đất nước. Chỉ sau 1 năm, miền Nam đòi lại độc lập từ tay Pháp, họ chấp nhận rút quân.

Về đối nội, an ninh trật tự được vãn hồi. Cuối 1954, ngăn chặn mưu toan đảo chánh của Tướng Nguyễn Văn Hinh, dẹp loạn Bình Xuyên và các giáo phái. Nhiều đoàn thể cùng phe phái chính trị đồng thanh ủng hộ chính phủ còn non trẻ. Hơn 1 triệu đồng bào di cư bày tỏ lòng biết ơn và an tâm hội nhập vào vùng đất mới.

Trước thành công ngoạn mục đó, Thủ Tướng Diệm tuyên bố thành lập nền Đệ Nhứt Cọng Hòa vào ngày 26/10/1955. Chính phủ dồn mọi nỗ lực canh tân đất nước: lập khu dinh điền, khu trù mật, cải cách điền địa và xây dựng hàng rào ấp chiến lược, ngăn cộng quân xâm nhập xóm làng.
Như một phép mầu, miền Nam bắt đầu thăng hoa phát triển về mọi mặt: nội trị, ngoại giao, pháp luật, kinh tế, tài chánh, giáo dục, y tế.  Xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản. Thành thị nông thôn vang rộn tiếng cười niềm vui. Suốt hơn 5 năm không hề nghe bom đạn. Saigon trở thành chốn phồn hoa đô hội, xứng danh là Hòn Ngọc Biển Đông. Saigon đẹp lắm Saigon ơi! Từ thành thị tới thôn quê, đồng bằng tới cao nguyên, hay Quảng Trị tới Cà Mâu, đâu đâu cũng đượm vẽ thanh bình.

Đúng là một thành quả rực rỡ, tưởng chừng khó có ai làm được. Nhà Văn Phan Khôi, tác giả Tình Già, được coi như người đầu tiên khởi xướng trường thơ mới. Ông nổi tiếng bộc trực, thẳng tính, ăn ngay nói thật, có con mắt tinh đời, nhìn xa hiểu rộng, nhận định sắc bén ít ai dám tranh cãi. Với tài năng hiếm hoi đó, ngay từ 1935 Ông không ngần ngại phát biểu: "Thật, chúng tôi nói 50 năm nay mới có một người như Ông Ngô Đình Diệm, không phải là nói quá", (Báo Tràng An, 29/3/1935).

Riêng nhà sử học Nguyễn Đình Đẩu thì cho rằng: "Ông Diệm là một người yêu nước và có công. Vào năm 1955, từ Pháp trở về, tôi thấy Ông Diệm có những hoạt động rất tích cực trong việc xây dựng lại xã hội đang sa sút lúc bấy giờ trên nhiều phương diện. Về kinh tế đang nhập cảng gạo mà chỉ sau vài năm đã phát triển nông nghiệp, xuất cảng được 300.000 tấn. Về văn hoá tiến bộ khá rõ, xây dựng được hệ thống giáo dục theo chương trình của người Pháp và phương pháp của Hoa Kỳ. Một thời gian ngắn đã đào tạo được nhiều chuyên gia trí thức ("Ngô Đình Diệm là người yêu nước", BBC Online, 7/11/2013).

Trong bối cảnh yên bình thịnh trị đó, ngay năm 1954, nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác bài Khúc Ca Ngày Mùa:

Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát 
Ảnh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác 
Chiều hồn quê bao khúc ca yêu đời.

Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát 
Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát 
Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời. 

Lờ lửng trôi qua trôi mãi trong chiều tà tiếng tiêu buồn êm quá 
Hồn ngất ngây trong tiếng hát đưa nhịp nhàng tiếng cười thơ ngây 
Mịt mùng đêm thâu cung hằng chênh chếch bóng khuất sau rặng tre
Tiếng ai hò chập chùng xa đưa 
Hò là hò lơ hò lơ hò lơ
Này anh em ơi! giã cho thật đều, giã cho thật nhanh
Giã cho khéo kẻo trăng phai rồi 
Khoan hò khoan tiếng chày khua vang mãi trong đêm dài. 

Cười lên đi trăng sắp tàn bóng xế
Hát lên đi để nung lòng nhân thế 
Để đồng xanh vui khúc ca ngày mùa 
Để đồng xanh vui khúc ca ngày mùa

2. Giải quyết ổn thỏa vấn đề Hoa Kiều:

Vùng Chợ Lớn là khu vực làm ăn sinh sống lâu đời của hơn 1 triệu người Hoa vẫn còn giữ quốc tịch Trung Hoa. Họ có tham vọng đòi tự trị cho vùng kinh tế trọng điểm này. 

Theo Cù Mai Công ("Ngô Đình Diệm và Nguy Cơ Đặc Khu Chợ Lớn Tự Trị", huongduongtxd.com): Để dập tắt yêu sách cuồng vọng đó, Thủ Tướng họ Ngô lập tức ký ban hành Dụ số 10 ngày 7/12/1955 quy 

định về luật quốc tịch Việt Nam, trong đó có điều khoản: Con chính thức mà Mẹ là người Việt và cha là người Hoa, nếu sinh ở Việt Nam thì là người Việt Nam.

Tiếp theo là Dụ 48 ngày 21/8/56: Hoa Kiều sinh trưởng ở Việt Nam sẽ là người Việt, bắt buộc phải nhập tịch Việt Nam, nếu không chịu thì có thể xin hồi hương về Đài Loan trước ngày 31/8/57.

Sau cùng là Dụ 52 ngày 29/8/56: Hoa Kiều sinh sống ở Việt Nam Cọng Hòa phải mang quốc tịch Việt Nam để tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Người Hoa phải Việt hoá tên họ và cơ sở thương mại.

Chỉ vài năm sau, 99,8% tổng số người Hoa trên toàn miền Nam đều xin nhập tịch, còn đâu chừng 2.000 người già yếu bệnh tật là không nộp đơn.

Gần 10 năm chấp chánh, Tổng Thống Diệm thu đạt nhiều cảm tình của người Hoa. Chính vì vậy mà trong giờ phút lâm chung, Tổng Thống đã được sự giúp đỡ nhiệt thành của Ông Mã Tuyên, Bang Trưởng Hoa Kiều vùng Chợ Lớn, hoan hỷ cho cả anh em Ngài tá túc suốt đêm dài định mệnh, rạng sáng 2/11/63 mới từ giả, để rồi bị thảm sát trên đường từ Nhà Thờ Cha Tam tới Bộ Tổng Tham Mưu.

3. Làm việc dựa vào chủ thuyết nhân trị:

Thuyết nhân trị chủ trương dùng đức nhân để trị quốc.

Nhà báo Nguyễn Đức Chung có bài viết "Tống Thống Ngô Đình Diệm và Những Kẻ Từng Mưu Sát Ông", 29/7/2011, honviet.uk kể lại câu chuyện về phi công Phạm Phú Quốc: Năm 1962, ngay sau khi thả bom Dinh Độc Lập bất thành, Phạm Phú Quốc bị giam giữ tại Cục An Ninh Quân Đội. Vài tờ báo ở Thủ Đô loan tin thất thiệt: Phạm Phú Quốc bị tra tấn nhục hình trong lao tù. Để làm sáng tỏ vụ việc, Tổng Thống đã cử Đại Úy tuỳ viên Lê Châu Lộc tới thăm Ông.

Phạm Phú Quốc xác nhận lúc nào cũng được đối xử tử tế, không hề bị đánh đập tra tấn hay hành hạ thể xác lẫn tinh thần. Ông còn viết thư ăn năn xin lỗi Tổng Thống vì đã nghe theo lời rủ rê của bạn bè mà làm điều sai phạm lớn lao, khiến cho Vị Nguyên Thủ quốc gia phải trăn trở buồn phiền.

Trong bài "Những Người Muôn Năm Cũ, Hồn Ở Đâu Bây Giờ?" (Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Quân Y), Nguyễn Tuấn Anh, Y Sĩ Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống cũng mạnh dạn nêu lên hai trường hợp:

   * Lãnh tụ Đại Việt Cách Mạng Đảng Hà Thúc Ký - người mà Bác Sĩ Tuấn Anh vô cùng mến mộ, năm 1955 đã từng lập chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) để võ trang chống lại Tổng Thống Diệm. Về sau bị bắt tại Saigon và vẫn được đối xử vô cùng nhân đạo.

   * Nhóm Tự Do Tiến Bộ, còn gọi là Nhóm Caravelle với 18 nhân sĩ uy tín, thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, bao gồm Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn...Năm 1960 họ ra tuyên cáo chỉ trích quyết liệt các sai lầm của chính quyền về chính trị, quân sự, xã hội, hành chánh làm suy giảm tiềm lực đấu tranh chống Cọng. Từ đó mà yêu cầu cải tổ.

Tuy vậy, không ai thuộc Nhóm này bị chính quyền trù dập hay gây khó khăn.

Thêm nữa, trong dịp Tổng Thống đi kinh lý Cao Nguyên vào năm 1957 thì bị tên Việt cộng Hà Minh Trí ám sát hụt. Thế mà Tổng Thống chỉ cho giam giữ chứ không xử tử hình kẻ âm mưu giết hại mình.

Những trường hợp nói trên minh chứng hùng hồn Tổng Thống Diệm là bậc anh minh vô cùng khoan dung độ lượng, sẵn lòng tha thứ và hòa ái với mọi người. 

4. Không hợp tác với cộng sản:

Sau khi Anh Cả Ngô Đình Khôi và con trai Ngô Đình Huân bị bắn chết cùng lúc với học giả Phạm Quỳnh năm 1945, Tổng Thống Diệm nghẹn ngào căm phẩn tội ác dã man của bạo quyền cộng sản. Ông không còn một chút tin tưởng vào bè lũ sát nhân. Theo Đổng Lý Võ Tòng Đức, Ông Diệm cương quyết từ khước lời mời hợp tác của Hồ Chí Minh. Lập trường này đi ngược lại đường lối của nhiều chính khách khác đã từng tham gia chính phủ liên hiệp trá hình do Việt Minh lập ra, như Cựu Hoàng Bảo Đại, Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Cụ Nguyễn Hải Thần, Nhà Văn Nhất Linh...

5. Không thần thánh hoá:

Những lãnh tu cộng sản rất ưa thích được thần thánh hoá. Họ muốn hình ảnh tên tuổi mình có mặt khắp nơi. Đặt tên chỗ này chỗ nọ. Cả trong văn thơ, trong kịch nghệ hay ca hát. Tốn hao công quỹ bao nhiêu cũng không màng, miễn sao xây tượng đài cho tráng lệ, cho uy nghi. Dựng tượng trong phòng họp, công viên, trường học hay phố thị cũng chưa vừa lòng. Còn muốn đem tượng vào chốn tôn nghiêm của chùa chiền để tranh chức thánh thần hay giáo chủ.

Tổng Thống Diệm thì không màng. Chưa bao giờ Ông khởi xướng hay cổ xuý cho việc ca tụng, tâng bốc hay đề cao bản thân mình.

Ở miền Bắc biết bao nhiêu văn nô vì miếng cơm manh áo mà tranh nhau viết bài ngợi ca lãnh tụ. Còn miền Nam suốt 9 năm chỉ có duy nhất một bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống do nhạc sĩ Ngọc Bích (1924 - 2001) viết nhạc và Thi Sĩ Thanh Nam (1931 - 1985) đặt lời.

6. Suốt đời độc thân:

Chuyện yêu đương trai gái là lẽ thường tình ở đời. Không ai có thể phê phán chê trách nam nữ ước mơ lập gia đình khi họ tới tuổi hôn nhân.

Nhìn lịch sử Việt Nam cận đại, có hai trường hợp đáng suy ngẫm.

   * Ở miền Bắc với lãnh tụ tối cao lúc nào cũng oang oang một đời độc thân để lo cho nước cho dân. Cả guồng máy Đảng ra sức tuyên truyền Bác không nghĩ chuyện vợ con để dành hết tâm sức lo cho quê hương dân tộc. Nhưng rất nhiều tin tức vạch rõ Ông Hồ từng 5 thê 7 thiếp, thậm chí sinh con rồi vô thừa nhận. Tệ hại hơn nữa là đan tâm giết bỏ tình nhân để phi tang mọi manh mối (Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày).

   * Còn Tổng Thống Diệm thì có sao nói vậy. Một đời hơn 60 tuổi không lăng nhăng tình ái. Điều này biểu lộ ngay từ thời thanh niên.

Mới 20 tuổi, sau khi đỗ đầu kỳ thi hậu bổ rồi nhậm chức tri huyện. Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài rất thương mến muốn kén chọn làm phò mã, nhưng Ông ngập ngừng thoái thác khiến cho Cụ Thượng vô cùng thất vọng, còn ái nữ Nguyễn Thị Tài vì buồn tình duyên ngang trái, đành xin vào tu dòng kín ở Huế ("Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc", p 20, Minh Võ, Hồng Đức, 2008). 

7. Đức độ, thanh liêm:

Ông Diệm là biểu tượng của người Công Giáo thuần thành, tôn trọng đức tin và nhân phẩm. Nặng lòng từ bi bác ái. Không gian manh xảo quyệt hay khát máu giết người kiểu cộng sản. Tính tình nhân từ, cả tin, không thâm độc, láu cá hay mưu mô lọc lừa như Hồ Chí Minh. Có thể vì bản chất này mà bị đám loạn tướng phản bội, toa rập theo người Mỹ để kiếm lợi danh.

Quách Tòng Đức trong bài phỏng vấn của Lâm Lễ Trinh đã cho biết: Ông Diệm sống đời thanh bạch, không xa hoa phù phiếm. Ngủ giường gỗ. Ăn uống đơn sơ đạm bạc, không đòi hỏi cầu kỳ. Thường ngày hay chuộng những món: cơm vắt, muối mè, cá kho, rau.

Không tậu nhà cửa riêng tư, không để lại tài sản gì, chỉ dành dụm được số tiền nhỏ phòng khi nghỉ hưu, nhưng rồi cũng bị đám phản nghịch tịch thu.

8. Không khuất phục ngoại bang: 

Cả hai thời kỳ làm việc với Pháp và Mỹ, Ông Diệm đã bày tỏ tinh thần cương trực của một bậc sĩ phu yêu nước, sẵn sàng từ bỏ chốn quan trường hay hy sinh thân mình để bảo vệ quê hương giống nòi, không hèn hạ khiếp nhược khuất phục ngoại bang.

 - Năm 1932 được Vua Bảo Đại tiến cử phụ trách Ủy Ban Cải Cách là cơ quan hổn hợp Việt Pháp. Trong cương vị đó, Ông mạnh dạn đề nghị gia tăng quyền hạn của triều đình và nới rộng tự do cho toàn dân. Tiếc thay Pháp vẫn ngoan cố không chấp nhận yêu cầu này. Ông liền quyết chí rủ áo từ quan, rời bỏ chức Thượng Thư Bộ Lại. Cảm phục tấm lòng khí khái đó, Cụ Phan Bội Châu gởi tặng Chí Sĩ Ngô Đình Diệm bài thơ Vô Đề:

Ai biết trời Nam hãy có người 
Xịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn trượng 
Ngôi báu xem nhường dép nửa đôi 

Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói 
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui 
Ví chăng kịp lúc làm vai vế 
Sau ngựa châu xin quất ngọn roi.

(Tiếng Dân, 27/12/1933).
 
 - Chống lại việc Mỹ đưa quân vào miền Nam: Sau 8, 9 năm đầu trợ giúp Nam Việt Nam, chiến lược của người Mỹ đã dần dần lộ rõ: khởi đầu là đi từ viện trợ, rồi đưa người giữ vai trò cố vấn, cho tới trực tiếp tham chiến. Nhưng Ông Diệm chỉ muốn Mỹ trợ giúp ngân quỹ, vũ khí, quân trang quân dụng cùng một số phương tiện cần thiết khác. Tuyệt nhiên không chấp nhận cho người Mỹ can thiệp quá sâu vào nội tình miền Nam. Ông Diệm nhấn mạnh việc bảo vệ chủ quyền, cho quân Mỹ vào là mất đi chính nghĩa.

Lập trường này đưa đến sự mâu thuẫn sâu xa, không thể hàn gắn được giữa hai nước đồng minh. Hậu quả tất yếu là Mỹ xúi giục một số tướng tá đảo chánh lật đổ Tổng Thống để dễ bề đưa quân vào miền Nam. Lòng yêu nước khiến Ông phải trả giá với cái chết đau thương của 3 anh em !

Về cuộc chiến tranh Việt Nam, nhà nghiên cứu lịch sử Lê Văn Sinh, nguyên là Giảng Viên Đại Học Quốc Gia Hà Nội nêu ra nhận định trái với quan điểm chính thống của Đảng cộng sản: Mỹ muốn đắp một con đê để ngăn chặn làn sóng cộng sản lan tràn ra xung quanh, vì vậy họ mới xây dựng, bảo vệ và giúp đỡ chính quyền Ông Diệm. Từ đó sinh ra cuộc nội chiến và lại vừa có cuộc chiến tranh uỷ nhiệm ý thức hệ (Chiến Tranh Việt Nam: Người Mỹ "xâm lược" hay "chỉ can thiệp", Quốc Phương, BBC News, 8/5/2021).

9. Không phân biệt đối xử hay đàn áp Phật Giáo: 

Đây là vấn đề khá nhạy cảm mà cho đến nay dù đã hơn 60 năm trôi qua.nhưng vẫn còn là mối ngăn cách, chia rẽ sâu xa giữa nhiều người Việt Nam.

Theo bên này thì ắt bị bên kia chống đối. Ai cũng giữ chặt quan điểm và suy nghĩ của mình. Thật khó mà đi đến chỗ thống nhất. Chắc chắn sẽ có người bất bình, chê trách hoặc lên án một vài điểm nào đó trong bài viết này, đặc biệt là nói về Phật giáo, một tôn giáo đông đảo tín đồ nhất ở trong cũng như ngoài nước.

Hiểu như vậy, nhưng chả lẽ khư khư im lặng, thủ khẩu miệng bình, cho nên người viết xin tiếp tục đề mục này trước khi kết thúc. Chỉ ước mong cung cấp thêm một vài số liệu hay ý kiến liên hệ với Tổng Thống Diệm cho rộng đường dư luận. Mọi phán xét đúng sai, ưa ghét là toàn quyền của quý thức giả.

Chủ yếu của phần này là Bản Phúc trình công bố ngày 13/12/1963 của Liên Hiệp Quốc (Report of the United Nations Fact - Finding Mission to South Vietnam) sau khi đi Việt Nam điều tra về việc đàn áp Phật Giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm.

 * Phía chính quyền báo cáo với phái bộ:

  - Tướng Trần Tử Oai: từ ngày nhậm chức của Tổng Thống Diệm đến nay đã có thêm 2.275 ngôi chùa được xây cất trên tổng số 4.766 chùa là bằng chứng hiển nhiên không có kỳ thị tôn giáo.("Liên Hiệp Quốc và vụ khủng hoảng Phật Giáo 1963", Nguyễn Văn Lục).

 - Ông Ngô Đình Nhu: số lượng công chức Phật Tử chiếm tỉ lệ 3/4. Có 14 trong số 17 tướng lãnh là Phật Tử.
Đại đa số giới chức cao cấp trong chính phủ là người theo Đạo Phật như Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Tổng Tham Mưu Trưởng, Bộ Trưởng Quốc Phòng, Ngoại giao, Chánh Văn Phòng và Võ Phòng, Chỉ Huy Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, Tư Lệnh Không Quân...

 * Phía nhân chứng: nhiều nhân chứng trả lời rằng từ trung ương không thấy chủ trương đàn áp, xuống cấp địa phương thì chỉ lẻ tẻ một vài nơi, nhưng không quá trầm trọng.

Cuối cùng, phái bộ đi đến kết luận: Những tố cáo đệ trình lên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc nhằm chống chính quyền Ngô Đình Diệm là không đứng vững sau khi phái đoàn điều tra một cách khách quan. Không hề có kỳ thị cũng như đàn áp Phật Giáo và cũng không hề có sự đụng chạm đến tự do tín ngưỡng.

Nhà Văn Nguyễn Vy Khanh có tác phẩm "Ngô Đình Diệm và Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở", dịch từ nguyên bản của tác giả Nguyễn Văn Châu. Trong đó hàm chứa nhận xét sau đây: Biến cố Phật Giáo 1963 chỉ là manh động của một số lãnh đạo Phật Giáo mà vai trò chủ chốt là Thích Trí Quang. Nó đã không đem lại tự do, công bằng cho Phật Giáo và nhất là nó biến phong trào Phật Giáo trở thành những thế lực chính trị dưới danh nghĩa tôn giáo có thể làm khuynh đảo xã hội miền Nam. Kẻ hưởng lợi không ai khác hơn là người cộng sản.

Phạm Văn Duyệt
Tháng Mười 2023

Nước Nào Mạnh Hơn về Quân Sự và Kinh Tế, Israel hay Iran?

 Abbs Nafoosh

Iran mạnh hơn Israel đáng kể, cả về quân sự và kinh tế, đặc biệt vì Iran là quốc gia có dân số gấp 10 lần và diện tích gấp 80 lần.

Nó giống như so sánh Trung Quốc và Mông Cổ.

GDP của Iran tính theo PPP là khoảng 2 nghìn tỷ USD. Israel có quy mô khoảng 500 tỷ USD (nhỏ hơn gấp 4 lần).

(Người ta có thể phản đối, tại sao lại sử dụng GDP theo PPP để so sánh? Bởi vì Iran sản xuất hoả tiễn có giá 100 nghìn đô la, trong khi Israel sản xuất hoả tiễn tương tự có giá 500 nghìn đô la. Những hoả tiễn đó giống nhau, chúng hoạt động giống nhau, chúng trông giống nhau, nhưng cái này lại có giá gấp 5 lần cái kia. Tại sao mọi người lại quan tâm đến chi phí nếu sản phẩm giống hệt nhau?)

Iran có quân đội tương đối tiên tiến nhưng không mạnh lắm với hàng triệu binh sĩ tiềm năng. Israel có quân đội rất tiên tiến, tương đối mạnh mẽ với hàng triệu binh sĩ tiềm năng. Nhưng dân số của nước này nhỏ hơn Iran 10 lần.

Tuy nhiên, Israel có ảnh hưởng quốc tế mạnh hơn nhờ vào sản lượng trí tuệ và công nghệ. Nước này có quan hệ tốt với nhiều quốc gia và hầu hết các quốc gia đó đều không muốn làm tổn hại đến bang giao của họ với một cường quốc về công nghệ và trí tuệ.

Iran cũng có khả năng ở vào vị trí tương tự, nhưng có thể phải đợi 100 năm nữa.

(Quora Digest)

21 October 2023

Tâm Sự Cùng Thu, thơ

TÂM SỰ CÙNG THU

Đã thấy Thu về đứng trước sân
Xôn xao chậu cúc vẫy tay mừng
Chập chờn tia nắng treo cành úa
Chiếc lá buông mình nuối tiếc xuân

Ai rước Thu về ? Thu của ai ?
Lang thang khắp trời rộng, sông dài
Mây nghiêng xõa tóc phơi đầu núi
Len lỏi trần gian cánh gió lay

Thu đẹp mà sao bóng hắt hiu
Gom chi nhiều lá, vác mang theo
Thu đi xả rác đầy thôn xóm
Chẳng lấp được buồn nhân thế đâu !

Mỗi lần Thu đến, lại Thu đi
Chẳng có gì vui, chẳng ích gì
Toàn những chuyện đời dang dở cũ
Thu vờ không hiểu nghĩa phân ly

Ta muốn thương yêu, chẳng thích buồn
Thu sầu gợi lại những tai ương
Niềm vui đã mất đêm hè muộn
Khi cánh phượng tàn, xác đẫm sương

Thu khoác cho ta áo lạnh lùng
Heo may về dẫn lối mùa đông
Ai xui trăng rớt, trôi giòng suối
Để suối thì thầm, chuyện viển vông

Ta hỏi Thu nghe: chuyện thế tình
Biết gì trong, đục cõi nhân sinh ?
Kiếp người ngắn ngủi, sao buồn khổ ?
Tri kỷ-tri âm, thật khó tìm ?

    Dương Quân

17 October 2023

Thu Vàng Ontario

 (Gõ vào hình để phóng lớn.)






























(Do A.C.La chụp ngày 15 tháng 10, 2023
tại một công viên gần Tp St. Thomas, Nam Ontario)

16 October 2023

Thu Cảm, thơ



 



 
Nếu Thu đừng thay lá
Thì Đông có đến không
Xuân sẽ còn tươi mãi
Hạ vẫn phơi nắng hồng

Nếu Thu đừng thay lá
Em vẫn mãi chờ mong
Người ở nơi viễn xứ
Có còn nhớ em không

Nếu Thu đừng thay lá
Mẹ Cha cứ chờ mong
Ngày Hè sao chưa đến
Con có về hay không

Nếu Thu đừng thay lá
Vợ sẽ luôn ngóng chồng
Đi làm ăn xứ lạ
Bồng con em cứ trông

Nếu Thu đừng thay lá
Vẫn có ngọn đông phong
Hè về vui đoàn tụ
Xuân mãi luôn trong lòng

NinhBé

11 October 2023

Người Thiếu Phụ trong mưa phùn giữa núi rừng Việt Bắc

(Những đòn thù sau Tháng Tư Đen)

Đoàn Trọng Hiếu

Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:

- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách. 

Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ. Sáng hôm sau khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng anh đã chết vài giờ sau đó. Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc phòng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:

– Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “ông Bác”. Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v.. Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.  

Giữa năm 78 vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi.”

Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu: “Rồi một ngày mai không có anh, em không còn phải nhớ phải mong – Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi – Cô đơn ngồi khóc một mình – Không một lần kịp vuốt mắt anh – Ôi mây lang thang về phía trời xa vời, nhìn trông theo cánh chim từng đàn, để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu, bụi thời gian lấp kín hồn mình, đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa, ôi ngày về còn dài bao lâu – Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải khóc phải thương – Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất, cô đơn phủ kín đời mình – Không một lần kịp nói tiếng yêu.”

Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã đi tìm báo cho gia đình tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm . Tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. 

Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó. Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại, thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về.

Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục. Chúng bắt đầu xin anh em chép và dạy cho chúng hát nhạc vàng, có tên còn xin đồ ăn và thuốc hút. Những buổi lên lớp do tên Trung tá Thùy nói chuyện đã bị anh em phản kháng bằng cách vỗ tay và cười, đã làm cho hắn ngượng ngùng. Chẳng hạn như lúc hắn khoác lác về tên Phạm Tuân đã bay Mig21 lên, rồi tắt máy phục kích ở trong mây, đợi B52 đến rồi nổ máy tiêu diệt, hay làm phụ lái cho tàu vũ trụ bay lên không gian nghiên cứu bèo hoa dâu dể nuôi lợn .v.v. Rồi sang đến cuối năm 80 thì cũng chính tin đồn anh em tù sẽ đi Mỹ, phát ra từ trong đám cán bộ, dân chúng quanh vùng quý tù miền Nam và ghét cán bộ ra mặt. Anh em đã san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. 

Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét.

Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi. Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. 

Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương. Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. 

Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:

– Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết. Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế. 

Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo. Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:

– Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động khốn nạn này! 

Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa. Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng. 

Đoàn Trọng Hiếu

08 October 2023

Trường Luật: .Bài giảng đầu tiên

Giáo sư vào phòng học.

Ông ta đảo mắt một vòng. Thấy cô sinh viên lơ đãng nhìn qua cửa sổ. Ông nói:

- Cái cô ngồi đầu bàn thứ 8 kia đứng dậy, Cô có thể cho tôi biết tên của cô không?

- Dạ, tôi tên Sandra.

- Hãy ra khỏi phòng, tôi không muốn thấy cô trong giờ dạy của tôi.

Tất cả phòng học đều im lặng. Cô sinh viên bị đuổi thu xếp đồ đạc và lặng lẽ đi ra.

Giáo sư nhìn các sinh viên và bắt đầu bài học:

- Tại sao lại có luật pháp? Luật pháp để làm gì?

Tất cả im lặng, người nọ nhìn người kia.

- Luật pháp để duy trì trật tự xã hội. Một sinh viên lên tiếng.

- Để bảo vệ quyền lợi cá nhân của mỗi người. Một sinh viên trả lời.

- Để thực hành công lý. Một sinh viên khác nói.

Giáo sư tỏ vẻ thất vọng:

- Cám ơn các bạn rất nhiều. Tôi vừa hành động không công bằng đối với đồng môn của các bạn phải không?

Ai cũng gật đầu.

- Tôi thực sự đã sai. Tại sao không ai phản đối?

Tại sao không ai trong số các bạn ngăn cản tôi?

Tại sao các bạn không lên tiếng trước sự bất công này?

Không ai trả lời.

Những gì các bạn vừa chứng kiến, cho dù 1.000 giờ ở giảng đường các bạn cũng không hiểu được nếu không trải qua nó.

Các bạn không lên tiếng chỉ vì bản thân mình không bị ảnh hưởng. Thái độ này nói lên các bạn chống lại cuộc sống.

Các bạn nghĩ rằng những gì không liên quan đến mình, thì đó không phải là việc của bạn.

Tôi nói với các bạn, nếu hôm nay các bạn không lên tiếng trước những bất công, không quan tâm đến sự công bằng, một ngày nào đó các bạn cũng sẽ gặp bất công và không ai bênh vực các bạn. Công lý của cuộc sống là bổn phận tất cả chúng ta. Chúng ta phải chiến đấu vì nó.

Trong cuộc sống và công việc, chúng ta thường sống bên nhau thay vì sống cùng nhau.

Chúng ta không cảm thấy bận tâm vì vấn đề của người khác không phải là việc của chúng ta.

Chúng ta thoải mái khi về nhà và mừng vì chúng ta không bị đánh.

Chúng ta không cảm thấy có bổn phận đứng lên vì người khác.

Những sự bất công xảy ra hàng ngày ngoài xã hội, trong công việc, nơi công sở hay ngoài đường phố. Dựa vào ai đó để sửa nó thôi là chưa đủ.

Nhiệm vụ của chúng ta là ở đó vì những người khác.

Nói hộ người khác khi họ không thể nói cho bản thân mình.


Tác giả: Beate Christeleit
Facebook: Anh Phong Nguyen
Bản dịch: Bui Nang Phan