Thanh niên quay sang nhìn thiếu nữ. Chàng thấy trong mắt nàng màu trắng long lanh của tuyết bạt ngàn dưới chân thung lũng phiá trước mặt. Chàng nhìn thoáng qua trũng ngực nàng: một màu trắng mê man. Mẹ chàng thường bảo: ''Quê ngoại vùng Ba Vì, có năm có vài ngày tuyết, những hoa tuyết nõn như tơ trời, phơi phới bay trong gió, dưới trời xanh cùng với những thảm cỏ, cây còn trinh nguyên, hoang dã. Con người vùng quê Ba Vì cũng trinh nguyên, hoang dã con ạ. Và hoa tuyết thì đẹp. Không gì trắng bằng tuyết, không gì tinh khiết như tuyết, và cũng không gì mong manh như tuyết ''.
Còn bố chàng? Đó là người đàn ông đã về lại quê nhà sau nhiều năm du học ở một xứ sở xa xăm tít tận trời Âu. Ông đã nói với mẹ chàng về cái xứ sở gần nửa năm trời tuyết phủ trắng xoá những đồi, những núi, những thung lũng, những giòng sông, và cả những hồ nước trên đỉnh núi! Ông bảo: '' Ở đó tuyết không chỉ những là những nõn tơ trời, tuyết còn là những bài thơ từ trời rớt xuống ''. Về chơi quê ngoại của mẹ, bố đã gặp một bài thơ của Trời vào một ngày tuyết lất phất bay. Ông đã thấy mẹ múc những gầu nước trong từ giếng nhỏ sau nhà, và những hoa tuyết dệt thành những chuỗi thơ nho nhỏ bám trên vai, trên tóc, trên riềm mi ngây thơ và trên vành môi con gái đương thì của mẹ. Đời mẹ mãi mãi là những bụi tuyết thủy chung đọng trên chiếc dù trong tấm hình chụp mẹ nghiêng người bên bố. Còn về bố , sau này khi chàng đã lớn khôn theo mẹ vào Sàigòn, chàng có lần nghe mẹ bảo: '' Ông ấy là bão tuyết; phải ngồi trong rạp hát mà nhìn lên màn ảnh chiếu những trận bão ấy mới thấy được cái đẹp của bão. Ngoài trời, bão chẳng tha một ai.''
Thiếu nữ:
- Anh đang nghĩ gì vậy?
Thanh niên:
- Anh đang nhìn màu tuyết trong lòng anh.
- Không có tuyết trong lòng đâu anh. Tuyết ngoài trời kia kià. Anh có thấy sườn núi trên kia và những người trượt tuyết ? Cảnh còn đẹp hơn cả trong tranh vẽ. Em yêu tuyết. Em yêu cảnh tuyết. Tuyết là thơ, là hoạ, là nhạc, là cả những điệu vũ nữa.
- Ai nói với em như vậy?
- Papa đã nói như vậy đấy anh. Papa dạy văn chương ở một vài trường cao đẳng vùng này. Papa đã du lịch nhiều nơi. Papa bảo: '' Núi tuyết ngọn nào cũng đẹp, từ ngọn Phú Sĩ ở Nhật, đến ngọn Thiên Sơn bên Trung Hoa, ngọn Kilimanjaro ở Phi Châu,... nhưng Papa yêu những ngọn núi tuyết vùng này hơn bất cứ nơi nào. Em chưa từng nghe mẹ nói về ngọn núi tuyết nào nơi quê mẹ, nhưng với Papa thì tất cả những núi tuyết trong vùng này đều là những ngọn đẹp nhất trên thế giới. Đẹp và hiền lành. Bão tuyết ở đây không dữ dội, và tàn phá như ở những nơi khác. Quê xưa của Papa ở vùng Bretagne, nhưng ông nội đã tới lập nghiệp ở đây cách nay cả thế kỷ rồi.
Anh nhìn thiếu nữ, anh nhìn qua cửa kiếng trong vắt, anh nhìn sườn núi trắng xóa xoải xuống thung lũng phiá dưới. Bây giờ anh thấy màu xanh trong mắt nàng, không lạnh lẽo như ánh mắt của mấy con bạn cùng lớp ở McGill. Mắt nàng dịu dàng, đằm thắm. Anh nhìn xuống chiếc áo trắng mở một khoảng rộng trước ngực, và thoáng thấy một nền ngực trắng đầy: Ôi! cánh đồng tuyết nguyên sơ cùng với những nụ anh đào nhỏ nhắn như những hạt đậu. Anh nhìn lên đỉnh núi phiá xa mà vẫn thấy như trong trí còn in một vài sợi lông tơ vàng mịn trên da những trái đào ửng hồng trên má nàng.
Nàng nâng nhẹ sợi giây chuyền trước ngực, cầm trái tim bằng màu hổ phách vàng óng, sẽ sàng cười nói với chàng:
- Trái tim này là kim cương đã luyện trong lửa trời, đã vùi cả ngàn năm trong tuyết vạn niên.
Nàng nói như những nhân vật trong những thần thoại. Thanh niên giơ tay ra đỡ trái tim, lưng bàn tay chạm nhẹ vào trũng ngực của thiếu nữ. Chàng thấy sức nóng từ trái tim đã luyện cả ngàn năm tràn ngập trong chàng.
Chàng ướm lời:
- Tối nay em ở đây với anh chứ?
- Tối nay không được rồi. Em đã hẹn sẽ về dùng cơm tối với Papa và mẹ ở làng bên kia.
- Sao em không giới thiệu anh với Papa và mẹ?
Nàng cười:
- Anh sẽ không là bão cuốn em đi chứ?
- Đi đâu thì rồi anh cũng sẽ trả em về với khu vực thung lũng này, với Papa và mẹ của em mà.
- Còn anh thì sẽ như những cơn bão cuốn người đi, để rồi sẽ tan biến không còn một vết tích?
Anh nhìn sâu vào mắt nàng:
- Quê anh không có bão tuyết, và ở vùng này tuyết dầy nhưng anh chưa hề nghe nói một trận bão tuyết dữ dội chết người nào. Anh muốn đem nắng ấm của quê anh cho em, và em nhớ đem theo cái bình yên của vùng thung lũng này cho anh nhé!
Anh nói nhưng trái tim anh như muốn thắt lại: bố anh là một người đàn ông VN đã sống nhiều năm trong những vùng nhiều bão tuyết trước khi trở lại quê hương. Ông đã đem bão đến cho mẹ và đã tan biến không còn một dấu vết. Có còn chăng thì chính là chàng, là giọt máu rơi của bánh xe lãng tử.
**
Chàng nằm trong căn phòng đơn của khách sạn nhìn ra sườn núi trước mặt. Trăng giữa tháng hai tỏa ánh sáng xanh nhạt trên khắp sườn núi. Đỉnh núi sừng sững dưới trăng lạnh. Và những rặng thông nghiêng mình chao nhẹ trong một điệu vũ. Chàng nhớ lại lời thiếu nữ : ''... Tuyết là thơ, là nhạc, là họa, là những điệu vũ''. Chàng choàng chiếc áo ấm, xỏ giày, và mở cửa bước ra ngoài lan can. Trăng tròn nằm vắt ngay bên đỉnh núi. Một đám mây tuyết lơ lửng quệt ngang mép núi rồi mất hút trong không gian yên tĩnh. Chàng nghe có tiếng dế rả rích kêu ở một góc nào đó dưới tầng trệt của khách sạn, trong và đều; và từ rặng thông phiá sườn núi trước mặt tiếng cú rúc từng hồi. '' Tuyết là nhạc, là thơ, là họa,...'', chàng tưởng tượng Papa của nàng đang dẫn những bài thơ , những bản nhạc, những bài văn của những văn, thi , hoạ sĩ ca ngợi thiên nhiên, và chàng thấy một nỗi khoan khoái muốn làm chàng dại đi: bức tranh tuyết trước mặt đẹp quá đỗi! Có họa sĩ nào đã vẽ nổi bức tranh hiện thực này ? Rồi tiếng cú rúc trong đêm trăng dưới tuyết, tiếng gió cuốn trên sườn núi, tiếng rầm rì của rặng thông bạc đầu phiá dưới thung lũng. Đó là nhạc tuyết. Chàng chợt thấy phiá xa xa, chếch về phiá trái của thung lũng, một đốm lửa nhỏ có lẽ là của một nhóm người cắm trại . Đốm lửa ánh lên trong đêm tuyết lạnh khiến chàng miên man nhớ đến trái tim màu hổ phách trên trũng ngực của nàng. Trong một thoáng mơ hồ, trí tưởng dẫn chàng về lò luyện tim người bằng lửa trời và trái tim đã hoá thành kim cương tinh tuyền vùi trong tuyết vạn niên.
Chàng quay trở vào phòng, lên giường và bắt nhớ đến nàng. Cơn nhớ kéo về như một trận bão tuyết. Khi cơn bão qua đi, chàng mơ hồ bềnh bồng trên thân thể tươi tắn, thanh bình của nàng. Chàng thiếp đi trong giấc ngủ.
Vừa hừng nắng, chàng đã thức giấc. Chàng kéo tấm màn bằng vải trang trí dầy qua một bên, để lộ khung kính rộng nhìn lên ngọn núi ngay phiá trước mặt. Núi đẹp đến ngỡ ngàng: sườn tuyết trắng nhấp nhô; và trên rặng thông già, dưới thung lũng, tuyết phủ một lớp sáng long lanh. Khu làng bên kia những mái nhà nho nhỏ ngập tuyết cũng ánh lên trong nắng. Hôm nay trời trong xanh. Nàng hẹn sẽ cùng anh lên trên phiá chót núi. Chàng sẽ trượt tuyết cùng nàng. Hôm qua, trước khi chia tay, nàng đã bảo: '' Sáng mai, em sẽ giới thiệu anh với mẹ em. Papa ngày mai có giờ dạy dưới Montréal, chiều tối Papa mới về. Em sẽ giới thiệu anh với Papa vào một dịp khác ''
**
Vừa xuống khỏi bậc thang cuối cùng dẫn vào đại sảnh của khách sạn, anh đã thấy nàng cùng bà mẹ. Người đàn bà trạc khoảng năm mươi. Nàng giới thiệu anh với mẹ nàng. Hai mẹ con nàng nói chuyện với anh bằng tiếng Pháp.
Bà mẹ:
- Cậu qua đây đã lâu?
- Thưa, khi tới xứ này cháu được mười hai tuổi.
- Gia đình cậu vượt biên hay được bảo lãnh?
- Bố dượng cháu bảo lãnh mẹ cháu, các em và cháu.
Mẹ nàng có vẻ trầm ngâm. Bà hỏi tiếp:
- Cháu còn nói được tiếng Việt?
- Thưa bác, vâng.
Bà mẹ quay qua thiếu nữ:
- Mẹ nói chuyện tiếng Việt với bạn con nhé.
- Con nghe được mà.
Thanh niên ngạc nhiên:
- Anh không ngờ đấy. Những lần gặp em ở thư viện của trường anh cứ tưởng em chỉ biết tiếng Pháp và tiếng Anh mà thôi.
- Hồi còn bé, em thường ở với ông bà ngoại cả tuần. Em là con lai, ai cũng tưởng em chỉ biết có tiếng Pháp và một ít tiếng Anh.
Anh quay qua bà mẹ:
- Suzanne nói tiếng Việt giỏi quá.
- Cậu cũng vậy. Qua đây năm mười tuổi mà còn nói tiếng Việt như cậu là giỏi lắm. Mà cậu có viết được không?
- Thưa bà, có. Cháu có theo học mấy lớp tiếng Việt ở nhà thờ Công giáo, và về nhà cháu vẫn nói tiếng Việt với mẹ và bà ngoại của cháu. Mẹ và bà ngoại không biết nhiều tiếng Pháp.
- Cậu học ngành gì?
- Cháu theo học ngành báo chí, và ngoài ra cháu còn lấy thêm một vài cours về ngôn ngữ và văn minh Đông Á .
Bà mẹ:
- Cậu tính theo đuổi nghề báo?
- Cháu cũng chưa rõ, nhưng nếu có dịp đi đây, đi đó như một vài người các lớp trên cháu thì cũng thích lắm. Cháu nghe nói Papa của Suzanne đã du lịch nhiều nơi và rất thích những vùng núi tuyết. Chắc bà cũng đã đi nhiều nơi như thế.
- Tôi và ông ấy đã đi gần khắp Âu Châu. Chúng tôi đã lấy nhau được hai chục năm, và năm nay Suzanne được đúng mười bảy.
- Bà qua đây đã lâu?
- Tôi vượt biên qua Canada vào năm 1980. Tôi đã mất gần hết mọi thứ tại Việt-nam và trên đường vượt biển, trừ ông bà ngoại của Suzanne.
- Cháu xin lỗi bà.
- Không sao đâu cậu. Với tôi, quá khứ đã xong rồi.
- Bà chắc thích vùng này?
- Ở đây tĩnh mịch. Tôi không quen những nơi náo nhiệt. Chồng tôi cũng vậy. Người ta thường bảo là người da trắng họ ưa thay đổi, nhưng Papa của Suzanne là một người có tâm tình và lối sống rất gần với mấy ông bác của tôi. Đó là một người trầm tính, yêu thiên nhiên, và đặc biệt là vùng quê hương ngập tuyết này của ông ấy.
- Suzanne cũng yêu cảnh tuyết lạ lùng lắm.
- Suzanne giống Papa của nó, yêu thiên nhiên, yêu văn chương và triết học. Còn tôi thì chốn nào bình yên, nơi nào con người hiền hoà, nơi ấy là nơi mà tôi yêu mến. Tuy vậy, những ngày trời trở lạnh, lạnh gắt như những ngày trong tuần trước, tôi cũng thèm tắm nắng ở những bãi biển nhiệt đới, cũng nhớ đến bãi biển ở xứ mình. Nhớ mà vẫn thấy ngán, sợ sao đó! Chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện đầu thai trở lại nơi vùng đất ấy nữa.
- Bà cũng tin ở luân hồi sao?
- Thì tôi vẫn nghe ông bà ngoại của Suzanne nói, và cũng có đọc ít sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Xứ mình là nơi dành cho những kẻ bị đọa.
Suzanne níu tay mẹ:
- Mẹ nói con chẳng hiểu gì cả. Đi ăn sáng xong chúng con còn lên trên kia trượt tuyết nữa mẹ.
**
Thanh niên và thiếu nữ trượt đuổi theo nhau trên những sườn tuyết. Tuyết bạt ngàn. Xa xa những cặp chơi trượt tuyết lao vun vút từ trên lưng chừng núi xuống những đường trượt uốn lượn phiá dưới chân núi, mất hút dưới thung lũng phiá làng bên trái, xới thành những luống tuyết tan rất nhanh vào thảm tuyết mênh mông trong vùng. Đầu đội nón nỉ choàng kín mang tai mà thanh niên vẫn nghe thấy tiếng gió vù vù. Qua cặp kiếng lọc nắng, chàng thấy thiếu nữ thỉnh thoảng ngoái đầu lại nhìn. Nụ cười thanh thoát của thiếu nữ trong không gian trong suốt, tinh khiết. Chàng nhấn mạnh cặp chống tuyết, đẩy nhanh hơn về phiá trước; chàng vượt qua nàng, lướt xuống phiá rặng thông cách lối vào nhà hàng khoảng 500m, dừng lại và chờ nàng xuống. Hai người từ từ đi về phiá nhà hàng.
Thiếu nữ:
- Những năm trước anh trượt tuyết ở vùng nào?
- Cũng quanh vùng này.
- Có người đẹp nào đi cùng với anh không?
- Anh đi chung với mấy bạn học, không ai là người đặc biệt cả.
Nàng cười thật dòn. Tiếng cười trong vắt.
- Có thật không đấy?
- Thật mà! Còn em thì sao?
- Em chẳng sao cả.
- Hồi mới quen em những lần vào thư viện của trường anh thấy em hay ngồi chung với Christine, Anne, và Thérèse. Họ nhiều bạn trai lắm.
- Mấy con ấy chúng nó chẳng khác lắm với một vài con ngựa cái trong show của Jerry Springer. Em chưa '' biết '' đàn ông.
Một ý nghĩ tinh nghịch thoáng qua rất nhanh trong đầu, chàng ỡm ờ:
- Biết anh đi.
- Nàng cười ngặt nghẽo:
- Em chỉ biết người nào mà em yêu.
- Em chưa yêu ai sao?
- Em chỉ yêu người nào còn trong trắng, tinh khiết, như tuyết trên đỉnh núi trước nhà.
Tiếng cười của chàng âm vang đến tận những rặng thông bên kia thung lũng:
- Em chọn đúng người rồi.
Chàng nhào tới, vật nàng xuống thảm tuyết. Họ hôn nhau. Những bụi tuyết bám trên môi hai người tan trong miệng họ. Thanh niên và thiếu nữ lần đầu thấy hương thơm của tuyết, và thấy cả cái ấm áp của tuyết. Họ nằm hôn nhau như thế, miên man, cho tới khi mặt trời chỉ còn in một nửa bóng trên sườn núi, và những cơn gió chiều bắt đầu tung những bụi tuyết về phiá dưới làng...
**
Thiếu nữ nói với thanh niên:
- Anh ngồi chơi, dùng trà với Papa ; em và mẹ sửa soạn cơm trưa ở nhà bếp bên kia nhé.
Thiếu nữ nháy mắt với chàng trai rồi nhanh nhẹn quay gót vào phiá nhà bên. Thanh niên cười, khẽ gật đầu. Chàng và Papa của thiếu nữ ngồi ngay bên cửa kính lớn của phòng khách sau nhà.
- Ông dạy học ở Montréal?
- Phải, tôi dạy ở dưới ấy, ở một vài trường cao đẳng (Cegep), và một ít giờ cho một hai trường đại học thuộc tỉnh này.
- Ông chuyên dạy triết?
- Tôi dạy văn chương, nói chung là văn chương Pháp và văn chương tiếng Pháp của tỉnh này, nhưng cũng có đọc thêm về triết học và một vài môn liên quan đến khoa học xã hội. Nhưng mà này, cậu có thấy cành đào ngay góc trái phiá trên cửa kiếng không?
- Thưa có.
- Cậu có thấy gì không nào?
Thanh niên nhìn thấy những nõn tuyết trắng bám phiá trên cành đào, và ngay cuối một cọng đào nhỏ đang run nhẹ phiá ngoài là một giọt tuyết đã đông đá, trong vắt dưới những tia nắng sớm. Thanh niên chợt thốt lên:
- Đẹp như trong một bức hình chụp.
- Đẹp hơn thế chứ cậu. Phải là những họa sĩ Á Đông mới cực tả được những nét đẹp của thiên nhiên trong trời tuyết. Tôi đã có lần thăm viếng Viện Bảo Tàng Quốc Gia ( National Palace Museum) ở Đài Bắc và đã được xem những danh tác của những bậc thầy hội họa Trung Hoa, nhất là các họa sĩ họ Hoàng vào thế kỷ 17, 18. Tôi không biết nên diễn tả cách nào, nhưng cậu hãy nhìn cảnh trước mặt chúng ta đây và thêm vào đó tùy trí tưởng của mình một vài loại chim, thú ở một góc nào đó trong bức tranh riêng biệt của mình. Tôi đã thấy những bức tranh với bầy quạ trong đêm tuyết, với thỏ dỡn đêm trăng trong khi tuyết rây ánh bạc xuống đồng vắng, và với vịt ngũ sắc Nhật Bản ngay bên con lạch tuyết vừa tan,...
- Cháu đã được xem trong một vài ấn phẩm một vài bức thủy mặc với núi non hùng vĩ và những rặng thông nằm dưới thung lũng. Phải công nhận là đẹp lắm.
- Tôi rất thích các tranh vẽ về cảnh tuyết của những hoạ sĩ bậc thầy Trung Hoa và Nhật Bản. Cái thần của họ đã nhập vào nét bút. Chắc cậu cũng biết Hokaisu, một danh họa người Nhật ở vào thế kỷ 18,19?
- Thưa ông, có. Bức Núi Phú Sĩ của danh họa này nổi tiếng khắp thế giới.
- Ông ta là một trong những người Nhật đầu tiên đã đem kỹ thuật bản khắc của người Hoà Lan vào tranh in. Nhưng cái hồn của ông chính là mắt nhìn chân chất của người nông dân Nhật vùng Katsushika.
Papa của Suzanne nâng chén trà :
- Mời cậu.
Thanh niên ngạc nhiên:
- Ông mời trà chẳng khác những người ở Việt Nam chút nào.
- Bà nhà tôi bà ấy dạy tôi đấy. Tôi và bà ấy cũng đã có dịp đi một vòng vài nước Á Châu. Tôi thích trà xanh hơn trà đen, và thích loại trà không bỏ trong túi giấy mà những người ở những nước Á Châu vẫn dùng.
- Cháu ít có dịp uống trà theo kiểu Việt Nam, nhưng ngồi đây thấy mùi trà thơm, và nhìn khói từ tách trà bay lên trong khi bên ngoài những bông tuyết tụ trên những nhánh đào làm cháu thú vị lắm.
- Cậu hãy thử một ngụm đi, rồi sau đó hãy lại nhìn ra phiá ngoài cửa kiếng.
Thanh niên vâng lời. Chàng từ từ có cảm giác không gian bên ngoài trong vắt, cùng với những cành cây, những hoa tuyết, những giọt nước đã đóng lại thành những giọt pha lê, và ngoài xa mặt trời như nằm ngang mặt hồ đang rà chiếu những tia nắng sớm lên mặt nước đã đóng thành băng, lên những người đi câu cá buổi sớm bên những lỗ đào trên mặt hồ. Chàng nhìn Papa của thiếu nữ bằng cái nhìn biết ơn.
- Cám ơn ông, bây giờ cháu bắt đầu thấy vị trà ngon và cảnh bên ngoài thật đẹp. Những điều này đều phải học hết ông ạ. Ông bà và Suzanne ở đây hạnh phúc quá.
- Chúng tôi hài lòng với khung cảnh này, nhưng cậu nhìn xem thế giới mà chúng ta đang sống con người ác độc quá. Họ giết nhau đã đành, họ còn đang tâm tàn phá chính những thứ đã nuôi sống họ. Họ không nghĩ đến những thế hệ tương lai. Chắc cậu không biết tôi là hội viên của hội Greenpeace?
**
Xe chạy lên phiá trên núi, dừng lại bên một thảm cỏ còn một ít bụi tuyết trông xuống một hồ nước lớn phiá dưới.
Thiếu nữ quay nhìn thanh niên:
- Chỉ một, hai tuần nữa là đầu xuân. Cơn mưa tuyết lất phất sáng nay có lẽ là một trong hai, ba cơn mưa tuyết cuối mùa. Mình xuống xe ra ngoài nghe anh.
Hai người đã ra khỏi xe. Trước mặt là một thảm cỏ non tươi xoải xuống phiá hồ. Thiếu nữ đi sát vào thanh niên:
- Anh thích cảnh này chứ?
- Cảnh đẹp lắm. Với cây, cỏ bắt đầu lên xanh như thế này thì có lẽ cảnh ở đây chẳng khác với vùng quê mẹ của anh những ngày có tuyết.
- Bên quê mẹ của anh cũng có tuyết nữa sao? Mà anh đã về thăm lại lần nào chưa anh?
- Anh chỉ biết quê mẹ của anh qua một hai tấm hình, và nghe mẹ nói có năm vùng quê của mẹ có tuyết lất phất bay, hiếm nhưng đẹp lắm: những xoải đồi cỏ, những cành thông, và rặng Ba Vì phiá xa.
Thanh niên nói và mơ hồ thấy vùng quê ngoại cũng đẹp không khác bức tranh thiên nhiên mà chàng cùng người yêu đang nhìn ngắm trước mặt.
Thanh niên và thiếu nữ choàng vai nhau, dựa vào xe mà nhìn xuống lòng hồ.
Thiếu nữ:
- Anh đã có dịp nói chuyện nhiều với Papa?
- Anh và Papa thỉnh thoảng gặp nhau trong một thư viện ở Montréal, tuy không nói với nhau nhiều lắm, nhưng anh rất hợp với Papa của em. Ông ấy không chỉ là một người dạy văn chương. Ông ấy còn là họa sĩ của thiên nhiên nữa. Anh đã nghe Papa nói về các danh họa họ Hoàng của Trung Hoa, và anh cũng đã nhắc đến tên họa sĩ Hokusai của Nhật.
- Anh có nghe Papa nói gì về những nữ thi sĩ của tỉnh này?
- Ông có nhắc đến tên vài người, nhưng anh chỉ nhớ được hai mà thôi.
- Những ai vậy?
- Anne Hébert* và Suzanne Jacob**.
Chàng tiếp:
- Ấy quên, còn Suzanne Nguyen Lafontaine nữa chứ?
Nàng cười:
- Chưa được đâu. Em đang học làm thơ.
- Em có thích những tác giả này không?
- Em thích hầu hết những nhà thơ, nhà văn nữ của tỉnh này. Papa hay nhắc một câu của Rina Lasnier***: '' Écrire en poésie, c'est écrire sur la neige avec la craie blanche du silence...''. Em đã thấy Papa và mẹ ngồi yên lặng hàng giờ ở phòng khách phiá sau nhà bên những tách trà.
Thanh niên xiết chặt thiếu nữ vào bên mình. Không gian trước mặt
tĩnh mịch và hoang sơ như những ngày đầu trong Sáng Thế Ký (Genesis). Anh quay sang thiếu nữ:
- Em có đọc Suzanne Jacob?
- Em có đọc nhưng không thuộc nhiều.
Thanh niên:
- Anh còn nhớ đôi giòng : '' Khi em còn thơ dại. Với những ngón tay trần lòi ra khỏi bao tay hở ngón (mitaine), em vạch nguệch ngoạc những vệt trên tuyết. Rồi tuyết rơi, dấu vết chẳng còn...Tuyết tan, rồi xuân tới và dấu vết tan theo cùng tuyết. Hè đến, em lại vạch những vệt trên cát. Trời mưa. Rồi trường học, bảng đen và những bôi xoá trên nền bảng. Nhưng rồi là tình yêu. Em vẽ những dấu hiệu bằng môi, miệng mình trên thân thể chàng... '' (phóng dịch).
Thiếu nữ nhìn thanh niên, say đắm. Năm nay nàng đã mười bảy tuổi. Cạnh một tảng đá nhô lên trông xuống mép hồ, một bụi daffodil vừa hé nở. Thanh niên kéo khuôn mặt thiếu nữ lại gần. Chàng từ từ hôn nàng. Thiếu nữ nhắm mắt lại, tưởng như chàng trai đang truyền sang nàng cái ấm áp, nồng nàn của sức nóng nhiệt đới cùng lúc với những bụi tuyết đang tung bay về muôn hướng trong trí của nàng. Mùa đông sắp tàn, tuyết đã tan gần hết trên mặt hồ, xuân đang tới, mặt trời rực rỡ đã lên. Chàng đang vẽ những dấu vết trên khắp khuôn mặt nàng, trên cổ, trên vai,...
Khi chàng buông nàng ra, nàng chợt nhìn thấy một con chim bói cá cắm thẳng từ trên không xuống mặt hồ, và trên trời cao bầy ngỗng trời đang xoải cánh bay về phương Bắc.
______
*Anne Hébert: Poèmes, Paris, Seuil,1960; Le Torrent (nouvelles), Paris,Seuil,1965;Kamarouska (roman), Paris, Seuil, 1970; Héloise(roman) Paris, Seuil, 1980.
**Suzanne Jacob: Fore cocon (roman), Montréal, Éditions Parti Pris, 1978;
Poèmes I, Gémellaires (poèmes), Montreal, Le Biocreux, 1980.
***Rina Lasnier: Les signes, Montréal, Hurtubise HMH,1976; Matin d'oiseaux, volume I, Montréal, Hurtubise HMH, 1978; Entendre l'ombre, volume I, Montréal, Hurtubise HMH, 1981; Voir la nuit, volume II , Montréal, Hurtubise HMH, 1981.
No comments:
Post a Comment