Lãng Anh
Những người cộng sản ở hầu hết các nước đều giành được quyền cai trị theo những cách thức giống hệt nhau. Bằng những khẩu hiệu tuyên truyền về một xã hội ảo tưởng, họ đặt trước mặt những người nghèo và thất học một cái bánh vẽ và xúi họ vào lò lửa chiến tranh. Tuy nhiên cơn điên dại tập thể cuối cùng cũng qua đi và hầu hết người dân nhận ra mình đã bị lừa vì không hề thấy sự bình đẳng cũng như phồn thịnh ở đâu mà chỉ thấy những ông chủ mới. Cho đến khi hàng loạt chế độ cộng sản sụp đổ vào cuối những năm 1980, nhân loại và chính người dân các nước đó đã phải trả những cái giá quá mức nặng nề. Dẫu sao họ đã gặp may vì cuối cùng cũng thoát khỏi một thứ quái vật ghê sợ trong lịch sử.
Tôi không phủ nhận rằng đã có những lớp người cộng sản sống vì lý tưởng với niềm tin cuồng tín rằng mình duy nhất đúng. Họ sẵn sàng phạm những tội ác không ghê tay để tiêu diệt và buộc những người khác phải nghe mình. Giữa những người cộng sản cuồng tín thời kỳ đầu và những tay đao phủ của nhà nước hồi giáo IS hiện nay có sự tương đồng giống hệt nhau: Khi cắt cổ người, chúng đều cho rằng mình đang làm vì điều đúng.
Với thứ bùa thiêng về một xã hội ảo tưởng, nơi con người có thể hưởng thụ theo nhu cầu bất chấp năng lực tạo ra của cải, những người cộng sản thế hệ đầu đã rất thành công trong việc nhồi sọ và lôi kéo con người. Họ đặc biệt thành công ở những xã hội đói nghèo với nền tảng dân trí thấp. Nhưng có lẽ khả năng trại lính hoá xã hội, triệt hạ tri thức độc lập mới là thứ vũ khí siêu hạng của những người cộng sản. Lenin và những đệ tử của ông ta đã diệt không gớm tay những người Mensevich và Trotsky, dù họ cùng là những đệ tử của Marx. Tất nhiên là bằng chuyên chính vô sản, số phận của trí thức và những kẻ thù giai cấp còn lại thì cực kỳ thê thảm. Mao Trạch Đông diệt hàng chục triệu người và tận diệt mọi tri thức đối lập cũng như các đối thủ chính trị trong Đại Cách Mạng văn hoá. Ở Việt Nam, ông Hồ Chí Minh cũng dìm chết mọi tư tưởng độc lập bằng cuộc thanh trừng nhân văn giai phẩm. Họ hành động rất giống nhau dù quy mô khác biệt nhau và mục đích thì chỉ có một: Tạo ra một xã hội tê liệt về tư duy và chỉ biết cúi đầu. Ở đây có lẽ nên có một nhận xét công bằng, Hồ Chí Minh không tàn bạo như hai tiền bối của ông ta. Trong hầu hết trường hợp, Hồ Chí Minh luôn tìm cách nấp phía sau giật dây và đẩy thuộc cấp ra hứng chịu búa rìu (Trường Chinh với cải cách ruộng đất, Tố Hữu với nhân văn giai phẩm).
Tuy nhiên những xã hội cộng sản đời đầu nhanh chóng đối diện với thực tại mà họ không thể vượt qua. Do xuất phát từ một lý tưởng sai lầm, họ thất bại trong việc tạo ra đủ của cải vật chất nuôi sống xã hội. Mục tiêu về sự công bằng thì lại càng xa vời vì cách thức họ kiểm soát quyền lực độc tài tự thân nó là gốc rễ tạo ra bất bình đẳng. Cuối năm 1980, sự tan rã của hàng loạt nhà nước cộng sản đánh dấu sự cáo chung của phong trào cộng sản toàn cầu.
Trong lúc đó, những người cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam loay hoay tìm cách thay đổi để kéo dài thời gian cai trị. Họ thấy rằng có thể vay mượn nền kinh tế thị trường vốn có năng lực nổi trội để tạo ra của cải ở phương Tây, và dựa vào đó làm bầu sữa nuôi sống cho bộ máy cai trị độc tài của mình. Trung Quốc tiến hành những cải cách cho phép sự hiện diện của đầu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân vào cuối những năm 1970. Việt nam nối gót chậm hơn, vào khoảng cuối những năm 1980. Cả hai chế độ cộng sản này đều gặp may, vì các nước phương Tây sau khi chứng kiến sự tan rã của hàng loạt nhà nước cộng sản đã cho rằng sớm muộn gì Trung Quốc hay Việt Nam cũng sẽ phải từ bỏ con đường bế tắc ấy. Vốn nước ngoài và công nghệ đổ vào những đất nước này và tạo ra những nguồn lực mới. Trong khi đó việc giành được quyền tồn tại cũng khiến các lực lượng tư nhân tham gia vào việc tạo ra của cải. Tuy nhiên đây cũng là lúc đánh dấu sự tuyệt chủng của những người cộng sản cuối cùng. Các lợi ích kinh tế được tạo ra cùng với quyền lực độc tài không được kiểm soát đã khiến toàn bộ đội ngũ cai trị tại Trung Quốc và Việt Nam nhanh chóng thoái hóa và đánh mất chút niềm tin lý tưởng cuối cùng. Kết quả là họ trở thành một tập đoàn tội phạm gắn kết với nhau bởi những khẩu hiệu chẳng ai còn tin và các món lời được tạo ra từ bòn rút ngân sách, từ việc lạm dụng quyền lực hoặc kiếm lợi từ lợi thế thông tin bất bình đẳng. Thực tế chế độ cộng sản đã chết từ lâu ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, còn lại chỉ là một tập đoàn cai trị độc tài tham nhũng dưới cái vỏ cộng sản.
Hai thứ bùa thiêng từng giúp những người cộng sản nắm quyền là cái bánh vẽ về một xã hội bình đẳng thì nay đã chẳng còn lừa gạt được ai khi chính họ đang là một đẳng cấp ưu tiên với mọi đặc quyền. Tuy nhiên, thứ vũ khí siêu hạng còn lại là kiểm soát thông tin và tiêu diệt mọi trí thức có năng lực tư duy độc lập thì họ vẫn đang làm rất tốt. Trung Quốc kiểm soát mạng xã hội cực kỳ ngặt nghèo và thanh trừng khốc liệt mọi trí thức đối lập. Việt Nam cũng đàn áp và triệt hạ không tiếc tay mọi trí thức phản biện với hàng loạt án tù. Bên cạnh đó, họ vẫn tiếp tục cố gắng duy trì hoạt động tuyên truyền để có thể lừa gạt càng lâu càng tốt những thành phần dân trí thấp nhằm kéo dài thời gian tồn tại. Tất nhiên đó là những nỗ lực không có ngày mai vì theo thời gian, khi chứng kiến tình trạng tham nhũng lan tràn, khi đối diện với sự tận diệt môi trường, những món nợ khổng lồ mà những tay cộng sản tham nhũng mang về cho đất nước, sự tuyên truyền của bộ máy cộng sản ngày một mất thiêng. Và cuộc cách mạng Internet đã bồi thêm những đòn trí mạng vào bức màn sắt kiểm duyệt tư tưởng và tuyên truyền của những chế độ cộng sản. Họ càng lúc càng mất khả năng kiểm duyệt và bóp nghẹt các luồng tư tưởng tự do. Bên cạnh đó chính nền kinh tế thị trường mà họ vay mượn từ các xã hội phát triển phương tây đã tạo ra sự hội nhập và giao lưu văn hoá mà họ không thể chặn lại được. Vấn đề mà tất cả các lãnh tụ cộng sản đều nhận ra: Không phải là có tồn tại được hay không mà là còn tồn tại được bao lâu nữa?
Những căn bệnh trầm kha mà Trung Quốc và Việt Nam đang mắc phải gần như giống hệt nhau. Một bộ máy tha hoá tham nhũng đến tận gốc rễ với hiệu năng cai trị ngày càng suy giảm. Các nguồn tài nguyên cạn kiệt và môi trường bị tàn phá nặng nề đến mức mất khả năng duy trì cuộc sống thông thường. Tình trạng bất công lan tràn với nạn lạm dụng quyền lực của bộ máy cai trị đã bị lưu manh hoá. Gánh nặng nợ công đè ngập cổ người dân cộng với mức thuế phí nặng nề trong khi các dịch vụ an sinh xã hội vô cùng tồi tệ.
Nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ 5 của chế độ cộng sản Trung Quốc là Tập Cận Bình cố gắng tìm lối thoát bằng một cuộc đại thanh trừng với chiến dịch đả hổ diệt ruồi, nhắm mục tiêu vào những đối thủ chính trị của ông ta và những thành phần quan chức tham nhũng không nằm trong phe cánh của Tập. Nhưng hơn ai hết Tập Cận Bình hiểu rất rõ rằng ông ta đang dựa vào một phe cánh tham nhũng để triệt hạ phe cánh còn lại. Cái gọi là đấu tranh tham nhũng của Tập Cận Bình tự thân nó thất bại ngay từ đầu khi không giải quyết được sự cai trị độc tài: Quyền lực độc tài không được kiểm soát tự thân nó là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Tập triệt hạ được một phe nhưng nếu Tập tước đoạt quyền lợi hoặc chĩa mũi dùi vào phe cánh đang phò trợ ông ta thì khi đó cái gì sẽ bảo vệ được Tập?
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sau khi thanh trừng được đối thủ chính trị lớn nhất của mình tại đại hội XII có vẻ cũng muốn thừa thắng xông lên với một chiến dịch học theo Tập Cận Bình. Nền chính trị của Việt Nam có độ tản quyền cao hơn và do đó dù có học theo thì Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng chẳng diệt nổi muỗi, chưa nói gì đến ruồi hay hổ. Và mục đích chống tham nhũng tự thân nó mâu thuẫn ngay từ đầu với nền chính trị độc tài.
Lá bài nguy hiểm nhất của Tập Cận Bình nhằm kéo dài thời gian cai trị lại chẳng dính dáng gì đến bộ máy nhà nước hay các tư tưởng tự do. Nó chính là chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đã nối tiếp nhau vun xới như một giải pháp dự phòng cho các bất ổn xã hội.
(Khá dài rồi, đành nợ các bạn phần kế tiếp vào ngày mai. Dù sao tôi vẫn còn vài ngày nghỉ nữa)
Theo FB Lãng