06 December 2012

VÀNG, ĐÔ và ĐÀO TẨU

TTR: Có thể nói chủ nghĩa cộng sản đã đẻ ra và đào luyện những khối óc đen tối chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Bản chất gọi là nền kinh tế thị trường với cái đuôi "có định hướng" rút cục chỉ là hệ thống vộ heo cho mập để hạ thịt, hay nuôi bò vắt sữa không phải vì lợi ích của quần chúng mà để chất đầy túi của một bè đảng. Và rồi một lúc nào đó cám vộ heo, cỏ nuôi bò cũng không còn thì những bộ óc đen tối kia phải tìm mọi cách cứu heo, cứu bò để heo đừng lăn ra chết quá sớm,  để bò vắt thêm vài lít sữa trước khi mọi chuyện lao đến điểm chung cuộc.

Xin mời quý anh chị cùng suy nghĩ với Luật Sư Lê Thi Công Nhân trong bài viết có tựa đề trên đây.


VÀNG

Cái gì quý người ta thường ví như vàng. Đây là kiểu ví von truyền thống đã thành một thành ngữ của Việt Nam, và không chỉ của riêng Việt Nam, mà còn là chung của thế giới. Thậm chí ví von nghĩa bóng người ta cũng dùng đến vàng, như nguyên tắc vàng, ông bạn vàng, khu đất vàng, thời điểm vàng, đám cưới vàng ..v..v.. Còn ở Việt Nam hiện nay vấn đề gì nổi trội vì sự khó khăn, khó đoán biết, liên tục thay đổi thì người ta nói là “nóng như thị trường vàng” hoặc “điên như giá vàng”. Răng lại có cớ sự như rứa ở cái đất nước Việt Nam nghèo nàn lạc hậu này?

Từ khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam quyết định mở cửa và cởi trói cho nền kinh tế từ đầu thập niên 90 thế kỷ trước sau gần nửa thế kỷ vừa đóng cửa vừa lấy còng số 8 trói chặt nền kinh tế để đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa thì các nhà lãnh đạo vĩ đại của cộng sản hơi choáng váng vì thấy dân vẫn cất giấu được khá nhiều vàng. Lãnh đạo cộng sản tưởng rằng sau những vụ cướp vĩ đại mà họ đã làm như vụ Cải cách ruộng đất, Cải tạo tư sản, Cải tạo công thương nghiệp – là những vụ lớn, và vô vàn những vụ nhỏ mang tính chất thường xuyên mà các cấp địa phương, cấp nhỏ hơn đến nay vẫn làm hàng tháng, hàng ngày để cống nạp lên cấp to hơn, thì tưởng rằng vàng trong dân đã được moi gần cạn hết rồi. Ấy vậy mà đến cuối mùa hè năm 2008 khi lạm phát phi mã bộc lộ và thấm thía đến từng người dân để mở đầu cho thời kỳ suy thoái kéo dài đến tận bây giờ thì giá vàng tăng đến 60% chỉ trong vòng 2 tháng từ khoảng 1,8 triệu đồng/chỉ tăng vọt lên 2,9 triệu đồng/chỉ. Thành ngữ “điên như giá vàng” phổ biến từ đấy.

Ngộ nhất là mùa hè năm ấy ở trong tù, tù nhân khố rách chúng tôi cũng bàn tán xôn xao và theo dõi sát sao giá vàng từ sáng mở mắt dậy đến tận đêm có kẻng báo ngủ gõ đinh tai nhức óc, thì giá vàng hôm nay thế nào, lên bao nhiêu rồi cứ gắn chặt vào mồm vào miệng để hỏi nhau, kể cho nhau, buôn dưa lê với nhau. Đến bản tin tài chính trên tivi thì cả phòng im phăng phắc, các đôi tai lừa ve vẩy lắng nghe tin. Tự khắc mà chăm chú tập trung hết chỗ nói!

Tại thời điểm cuối năm 2008 đó việc giá vàng tăng vọt và sau đó không bao giờ hạ xuống nữa có nguyên nhân là do khi ấy hậu quả tai hại của nền kinh tế nội lực yếu, vốn phần lớn là đầu tư nước ngoài còn phần vốn trong nước lại chủ yếu là vốn đối ứng được chuyển từ “giá trị quyền sử dụng đất” góp vào, và nền kinh tế vừa được vu cho là kinh tế thị trường lại vừa được chỉ đạo dẫn dắt theo chủ nghĩa xã hội, có thể hiểu ngắn gọn là kinh tế tư bản kiểu cộng sản. Trong nền kinh tế này, cái phần thị trường lại chính là tư bản kiểu nguyên thủy man rợ mà chính phe cộng sản (Không biết họ có thực học và thực hiểu về kinh tế tư bản không?) luôn vu cho các nước tư bản là như thế: người bóc lột người, tàn phá thiên nhiên, khai thác tận diệt tài nguyên, lừa đảo chộp giật đủ kiểu. Phần định hướng xã hội chủ nghĩa thì là: kiên định quyết tâm bất chấp mọi thủ đoạn đảng cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt nền kinh tế tức là tất cả các tổ chức kinh doanh sản xuất đều phải có sự cho phép của đảng cộng sản khi thành lập, khi đang hoạt động và ngay cả khi phá sản.

Ngoài ra, đảng cộng sản còn lãnh đạo tuyệt đối mọi tổ chức kinh doanh của nhà nước và áp đặt tất cả tổ chức kinh tế quốc doanh này phải là chủ đạo. Từ đó trút vô tội vạ vốn từ ngân sách nhà nước do nhân dân còm cõi lầm than đóng thuế vào các tập đoàn, tổng công ty nhà nước như vào một cái thùng không đáy để các thể loại nhân sự của những tổ chức kinh tế quốc doanh từ tổng giám đốc tới nhân viên bảo vệ đều 100% phải là con cháu người quen của các tầng tầng lớp lớp đảng viên cộng sản làm sếp to, sếp nhỏ của cơ quan ấy mới được vào làm. Cái nền kinh tế như thế, sau 20 năm sung sướng xả hơi vật vả kiếm tiền cho hả, cho bõ để bù lại gần 40 năm bị cùm, bị trói, bị bịt mắt ấy thì đến năm 2008 – như một kết thúc tất yếu, bộc lộ hết bản chất nửa dơi nửa chuột của mình ra và cả nước chính thức bước vào thời kỳ suy thoái thật sự do chính mình gây ra – chứ không do giọng điệu tuyên truyền láo lếu nhảm nhí ra rả đêm ngày là do suy thoái kinh tế thế giới nói chung ảnh hưởng đến Việt Nam. Suy thoái kinh tế thế giới nói chung ảnh hưởng đến Việt Nam đương nhiên là điều tất yếu, nhưng nó chỉ là một phần mà không phải là nguyên nhân chính khiến nền kinh tế Việt Nam như thế này.

Và khi ấy người dân lại càng tin, càng muốn cất trữ tài sản mà mình làm ra vào một thứ có giá trị bền vững và phổ biến nhất – là vàng. Ngoài ra cần phải nói thêm rằng người Việt Nam từ trước đến giờ vẫn có thói quen cất trữ tài sản vào vàng như vậy. Ấy là do trong lịch sử Việt Nam, có thể nói chưa bao giờ nước ta được lãnh đạo bởi những vị vua sáng suốt tài giỏi thương dân đến mức coi sự thịnh vượng và tiến bộ của dân chúng là thành công, vinh quang và hạnh phúc của người cầm quyền. Có thể nói gần như tất cả những vị vua của Việt Nam trong quá khứ và hiện nay nếu nói điều ấy thật lòng thì cũng chỉ ở mức muốn dân chúng đủ ăn đủ mặc để an phận làm con dân mà thôi.

Đến giữa năm 2011 thì nền kinh tế bắt đầu rơi vào vùng đáy của suy thoái và không ai biết được khi nào sẽ thoát khỏi suy thoái khi mà các dấu hiệu thì rất nhiều người thấy, và cũng nhiều không ít hơn số ấy là dự đoán của các chuyên gia hàng đầu của rất nhiều trường phái học thuật tài chính kinh tế, nhưng tựu trung lại cũng chỉ là vấn đề niềm tin và đạo đức, rằng “Khi nào mọi thứ trở lại/về giá trị thực của nó thì kinh tế sẽ phục hồi.”. Chân lý này thường bị quên trong nhiều trường hợp, và đặc biệt hay bị quên trong lĩnh vực kinh tế. Tất nhiên những lãnh đạo cộng sản chóp bu hoàn toàn nhận thấy rõ điều ấy, thậm chí còn nhận thấy trước dân chúng rất nhiều. Do đó, một mặt họ vẫn tiếp tục ngu dân, mỵ dân bằng những bài tuyên truyền nhảm nhí, một mặc ra sức thu vén tư lợi bất chính bằng việc in tiền khống. Không gì thu lợi được nhiều hơn từ bóc lột và tận thu cùng kiệt sức lực và tài sản của dân.

Và, vàng chính là thứ mà người dân tích lũy nhiều nhất công sức lao động của mình vào để tránh lạm phát ăn mòn tài sản của họ. Nhu cầu chính đáng này là phổ biến và bình thường ở một đất nước mà việc thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt và niềm tin của của người dân vào nền kinh tế và giá trị đồng tiền là rất kém. Do vậy, phải tìm mọi cách để lấy được vàng của dân ra, vì vàng thì chính quyền không sản xuất khống được như là việc in tiền-suy cho cùng cũng chỉ là tờ giấy, mà lại là giấy nội địa, loại giấy có mặt ông Hồ to tướng mà chỉ cần sang tới Thái Lan thôi đã chẳng ai thừa nhận, không còn chút giá trị nào.

Thế là Nghị định 24/2011 ra đời, hiệu lực tháng 5.2012 đến nay mới chỉ 6 tháng mà đã làm thất điên bát đảo thị trường vàng Việt Nam vốn đã không ổn định, thì nay nhờ có chính phủ trứ danh của ông Dũng mà trở nên quái đản dị thường chưa từng thấy. Xin điểm ngắn gọn vài hậu quả của chính sách chống vàng hóa trong giao dịch mua bán và ổn định thị trường vàng của chính quyền cộng sản Việt Nam:

-         Hoàn toàn không có bất kỳ một dấu hiệu nào là thành công nhỏ nhoi trong việc chống vàng hóa trong các giao dịch mua bán;

-         Hoàn toàn không có bất kỳ dấu hiệu nào là thị trường vàng được ổn định, mà chỉ có:
-         Trước thì giá vàng trong nước cao hơn thế giới khoảng 500.000-1.000.000 đồng/lượng giờ thì đã cao hơn 3.000.000 đồng/lượng (*);

-         Chỉ trong 5 tháng Ngân hàng nhà nước đã thu mua được 60 tấn vàng từ trong dân (*);

-         Thị trường vàng trong nước không còn liên thông với thế giới, tức là không còn thể hiện sự liên quan bình thường với thị trường vàng thế giới, Việt Nam một mình một kiểu không giống ai;

-         Nhãn hiệu vàng SJC bỗng dưng-bằng một mệnh lệnh hành chính nhà nước, trở thành thương hiệu vàng quốc gia, và tăng giá một cách kỳ lạ, trở nên kiêu kỳ và khó tính trong cả việc bán đi và mua lại vàng của chính mình sản xuất;

-         SJC thu lợi số tiền khổng lồ mà không ai bên ngoài có thể thống kê được. Số lợi khổng lồ không chính đáng này đến từ chênh lệch giá vàng và việc mua rẻ, ép người dân phải bán lại giá rẻ có khi lên tới 500.000 đồng/lượng vàng cũ của chính mình sản xuất ra, với lý do mà bất kỳ một nhân viên thu mua vàng nào của SJC cũng luôn leo lẻo mỗi khi gặp khách đến bán vàng là “Túi chân không bị rách, có hơi ẩm, vàng méo, vàng xước, chữ/hoa văn chỗ nọ chỗ kia không rõ  ..v..v.. Bớt 300.000 đồng/500.000 đồng (so với giá niêm yết). Không bán thì thôi.” Tự tin như đinh đóng cột! Tất nhiên nếu khách bán thì số tiền chênh lệch ấy nhân viên trực tiếp mua không “ăn” một mình, SJC cũng không thể “ăn” một mình, mà tất cả bọn họ từ kẻ lãnh đạo ăn trên ngồi tróc đêm ngày ủ mưu bày kế bóc lột dân ra lệnh, đến các đại gia giám đốc quản lý tập đoàn này, còn các nhân viên trực tiếp cấp dưới thì đương nhiên cũng có những phần thưởng theo khoán, theo chỉ tiêu, định mức thu mua.

-         Thị trường vàng trở nên quái đản chưa từng thấy với chênh lệch giá giữa nhãn hiệu SJC cao hơn khoảng 5% so với vàng cùng loại của nhãn hiệu khác. Đây là một con số rất lớn đến mức kinh dị chưa từng có đối với mặt hàng đặc biệt này;

-         Dân chúng đổ xô đi bán vàng nói chung, và riêng với các nhãn hiệu không phải là SJC;

-         Nghị quyết 21/2011 của quốc hội yêu cầu bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng thế giới, thành vô nghĩa. Chính phủ hoàn toàn coi thường quốc hội...v..v..

Và cuối cùng thì không thể khác những điều như ông nghị Nguyễn Trí Dũng – Nhóm tư vấn chính sách vĩ mô – Ủy ban Kinh tế quốc hội nói “Nhu cầu tích lũy tài sản bằng vàng để tránh lạm phát bào mòn tài sản tích lũy là nhu cầu chính đáng của người dân. Trước kia ngân hàng chưa huy động vàng người dân vẫn tích lũy, nếu đồng tiền cứ mất giá thì người dân vẫn phải giữ vàng và sẽ tìm được cách giữ vàng.” (Báo Tuổi trẻ, thứ 7, 17.11.2012, page 7)

Vậy là sao? Tiếc là ông Trí Dũng này, nếu tôi đoán không nhầm, lại quá lịch sự không đúng chỗ, khi ông không nói thẳng ra rằng “nếu đồng tiền cứ mất giá thì người dân vẫn phải giữ vàng và sẽ tìm được cách giữ vàng, chính quyền đừng hòng moi được hết vàng của dân, nhá !”

Giả thuyết của tôi hoàn toàn phù hợp với phát biểu của ông nghị Nguyễn Văn Tuyết – Bà Rịa Vũng Tàu rằng “Thống đốc trả lời khôn cũng tốt nhưng đừng nghĩ là dân không biết gì.”.

Đúng vậy! Có thể dân – trong đó có tôi, chưa biết sự thật là gì (vì được che giấu quá kỹ), chưa biết tốt đẹp, thịnh vượng, văn minh là như thế nào nhưng chắc chắn chúng tôi biết rằng cái hiện tại của đất nước này, của chính quyền cộng sản Việt Nam này là độc tài, là gian dối, là ngu dốt. Vì vậy, mà tận sâu trong lòng người dân Việt Nam giờ đây quá chán ngán tất cả những gì cộng sản nói, bằng chứng là học sinh Việt Nam bây giờ coi môn lịch sử chỉ là môn học nhảm nhí, thậm chí không cần học, thậm chí ngay cả ông bộ trưởng giáo dục Việt Nam còn xưng xưng phát biểu rằng “50% học sinh thi tốt nghiệp trung học môn sử dưới 2 điểm, là bình thường.”

Kết thúc phần Vàng, xin trích 2 phát biểu:

-    Ông nghị Trần Du Lịch phát biểu tại phiên chất vấn thống đốc Nguyễn Văn Bình sáng 13.11.2012 “Qua phần trình bày của thống đốc, dường như muốn tiêu diệt thị trường vàng, chứ không muốn bình ổn thị trường vàng.”

-  Thống đốc Nguyễn Văn Bình “Sau 6 tháng thực hiện nghị định 24, nhà nước đã thu mua được 60 tấn vàng.” phát biểu cùng buổi sáng hôm ấy tại quốc hội.

Vô cùng sung sướng và mãn nguyện!

ĐÔ LA

Câu chuyện của đô la ở Việt Nam hiện nay cũng thú vị không kém câu chuyện của vàng. Chỉ khác là việc nhà nước thắt chặt việc mua bán ngoại tệ đã có từ rất lâu, nhưng làm thì đì đùng, vì thật ra là không làm nổi, không muốn làm. Chính thế mà nhiều người dân bị mất tiền oan khi đi mua bán ngoại tệ, vừa mất số tiền đem mua, bán, vừa bị phạt thêm một số tiền rất lớn, nên uất ức vô cùng. Giới công an, quản lý thị trường và nhất là các thể loại trinh sát liên ngành chỉ việc thỉnh thoảng phố hợp với nhau đi rình ở các hiệu vàng, các điểm mua bán ngoại tệ tư nhân mà ai cũng biết, rồi thích bắt ai là bắt, hoặc bắt theo chuyên án để vớ được quả “bẫm” mà chia nhau.

Việc thắt chặt mua bán ngoại tệ, mà chủ yếu là đô la khác với vụ quản lý vàng ở trên là chính quyền không thể bỗng dưng chọn một loại ngoại tệ nào để làm đối tượng siết được vì nó có sẵn rồi, chỉ vài loại như thế, như thế, mà mình lại chẳng thể tác động gì vào nó, không in khống được, không làm giả được, cũng không làm nó tăng hay giảm giá trị được, vậy phải làm cách nào đây để thu gom được thật nhiều ngoại tệ, càng nhiều càng tốt. Thế là chính quyền, với công cụ quyền lực trong tay, nghĩ ra ngay những mệnh lệnh hành chính cho đám lâu la bộ sậu hùng hổ thực thi.

Ngày 29.08.2011 Ngân hàng nhà nước ban hành thông tư 20 về mua bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với tổ chức tín dụng được phép. Những quy định của thông tư cực kỳ nhiêu khê và còn có dấu hiệu của “nước đái chuột”. Mỗi ngày mỗi người được mua tối đa là 100 đô la cho một ngày đi công tác, du lịch, khám chữa bệnh, công tác, thăm viếng ..v..v.. và chỉ được mua tối đa cho 10 ngày, với điều kiện phải trình bày lý do bằng văn bản có các giấy tờ khác chứng minh kèm theo. Đối với doanh nghiệp thì khỏi phải nói về những nhiêu khê khốn khổ trong hành trình đi mua đô la của họ.

Ngược lại với thủ tục áp cho người mua ngoại tệ cực kỳ quan liêu, nhiêu khê, theo đúng cái cách mà chính quyền cộng sản này luôn đối xử với dân là “Chúng mày cần nhưng bọn ông đếch cần.”, thì dân tình ngây ngô được khuyến khích đem hết ngoại tệ ra mà bán cho ngân hàng, không hạn chế số lượng, thậm chí bán cả ngoài giờ và ngay tại nhà dân thì nhân viên ngân hàng cũng sẽ rất vui lòng vác bị đến mua luôn và ngay. Còn với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì thậm chí ngân hàng còn có sáng kiến và lạm quyền tự động giữ lại đô la của doanh nghiệp mà bên phía nước ngoài trả cho doanh nghiệp trước đó qua các LC tại ngân hàng và bắt doanh nghiệp muốn lấy được số tiền chính đáng của mình phải mất rất nhiều thời gian công sức cho các thủ tục quan liêu hành dân, đến mức gần như tất cả các doanh nghiệp đều phải cho nhân viên ngân hàng ăn của đút để giải quyết cho họ được rút ngoại tệ của họ ra.

Xin nhắc lại chút ít rằng tất cả các ngân hàng nội địa Việt Nam dù là tư nhân (nguồn gốc thành lập) hay quốc doanh được cổ phần hóa thì đều có cổ đông lớn nhất là phe cánh, bè nhóm của các thể loại lãnh đạo chóp bu cộng sản.

Ví dụ: Ngày 31.08.2012, tại Huế, công an đã bắt 1 vụ mua bán ngoại tệ trái phép của ông Lộc – người bán 10.000 đô la Mỹ với bên mua là hiệu vàng Phước Lộc trên đường Mai Thúc Loan – tiền để mua là 209 triệu đồng. Người bán và mua bị tịch toàn bộ số tiền này, ngoài ra còn bị phạt mỗi người một số tiền khổng lồ là 80 triệu đồng. Báo Thanh tra điện tử đăng ngày 17.10.2012, ngoài ra bài viết còn nhấn mạnh “Theo các điều tra viên, việc mua bán ngoại tệ trái phép này nhằm thu lợi bất chính. Do thủ đoạn, hành vi hết sức tinh vị nên lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ công an thành phố Huế đã phải mất nhiều thời gian mới bắt được.”

Ở Việt Nam, lên tiếng đòi tự do ngôn luận, viết báo đòi tự do lập hội, đi biểu tính đòi tự do yêu nước còn bị chính quyền vu cho là “để kiếm tiền, nhằm thu lợi bất chính” thì việc mấy người trên bị đối xử như tội phạm bắt quả tang, bị tịch thu hết cả tiền bạc, rồi còn bị xử phạt là cũng đúng thôi. Nhưng cái “đúng” này nên nhớ là đúng với nhu cầu ăn cướp, đúng với cách hành pháp hành dân, bẫy dân của chính quyền cộng sản Việt Nam, chứ hoàn toàn không phải là sự đúng đắn và phù hợp với nhu cầu thực tế và hành xử bình thường có đạo lý của xã hội và người dân Việt Nam. Bằng chứng là ai biết về vụ việc này ngay khi nó xảy ra và bây giờ khi kiểm chứng bài viết này thì chỉ đều thấy phẫn nộ chính quyền cộng sản Việt Nam là một lũ cướp đê tiện, và xót xa oán thán thay cho 2 công dân kia.

Khỏi phải nói sau 1 năm thực hiện thông tư 20 nêu trên, các ngân hàng đã moi được của dân  bao nhiêu đô la! Ý quên, mua ạh!

ĐÀO TẨU

Khi quyết định đào tẩu, có 3 điều quan trọng phải nghĩ kỹ:

1-     Đào tẩu sang nước nào?

2-     Đào tẩu khi nào?

3-     Đem theo gì khi đào tẩu?

Đối với lãnh đạo cộng sản cao cấp kiêm tư bản đỏ ở Việt Nam hiện nay thì các câu trả lời đương nhiên là:

1-     Đào tẩu sang các nước tự do, dân chủ. Thật đáng tiếc cho họ các nước cộng sản ruột thừa anh em chi sống chí chết của họ lại chẳng có đồng chí nào là tự do, dân chủ cả, nên đành phải vác cái mặt trơ trẽn méo mó cô hồn dị hợm đào tẩu sang các nước tư bản giẫy chết vậy.

2-     Đào tẩu khi thời điểm thuận lợi, nhất là việc chuẩn bị tài lực cho cuộc sống sau đào tẩu đã chuẩn bị xong. Nhưng ôi chao! Cái việc này lại hay bị kéo dài vì lòng tham của bọn chúng là vô đáy, với lại mọi sự trên đời này nào có mấy khi như ý mình. Sự không như ý ấy vừa đến từ những rủi ro hoàn toàn ngẫu nhiên, vừa đến từ tình đồng chí cộng sản – cái thứ tình mà ngày hôm trước còn ôm hôn nịnh bợ nhau không biết ngượng như mất trí thì ngay hôm sau đã có thể ra lệnh bắt nhốt nhau, đấu tố nhau và cả giết nhau nhân danh sự “cải tạo”.

3-     Hành trang đem theo khi đào tẩu đương nhiên là một lý lịch mới (Con em cộng sản đi du học còn làm hẳn bộ lý lịch và cả cha mẹ mới, bất chấp tự trọng và tình cảm tự nhiên của con người, huống hồ là đào tẩu!) và thật nhiều, thật nhiều tiền và kim loại quý dễ quy đổi và sử dụng được như tiền.

Vậy, tiền ấy là tiền nào, kim loại ấy là kim loại gì mà ở đâu, lúc nào cũng có giá trị ổn định nhất so với các loại tiền và kim loại quý khác?

Ấy là vàng và đô la. Vàng ở đâu cũng là vàng. Đô la ở đâu cũng là đô la. Giá trị luôn được bảo toàn gần như tuyệt đối bằng nhau ở mọi nơi có sử dụng vàng và đô la trên thế giới này (Tất nhiên có thể có xê dịch chút ít, nhưng đảm bảo là rất ít!).

Do vậy, với một chính quyền đã thối nát đến tận cùng, nền kinh tế đã be bét, rách bơm không che giấu vào đâu được nữa, cộng sản chỉ còn trông mong vào sự khiếp sợ của ngươii dân mà nỗi sợ ấy đã được dày công gieo mầm nuôi dưỡng trọn vẹn 3 thế hệ trong hơn nửa thế kỷ qua, để vơ vét nốt được ngày nào hay ngày ấy, rồi đánh bài chuồn. Quá trình chuẩn bị đào tẩu đã được chuẩn bị chu đáo từ lâu dưới mọi hình thức mua bất động sản, chứng khoán, đầu tư trực tiếp kinh doanh, cho con cái du học, kết hôn với người có quốc tịch nước ngoài, đem đô la, vàng kiếm được bất hợp pháp ra gửi ở nước ngoài.

Vàng, đô la ấy kiếm thêm, moi thêm ở đâu ra bây giờ? Đầu tư nước ngoài đã chựng lại vì bộ mặt lật lọng tham nhũng phơi lộ bầy hầy nhớp nhúa đến nỗi tài nguyên thiên nhiên và giá lao động rẻ mạt cũng không còn hấp dẫn như trước nữa rồi. Dân thì cũng đã khôn ra một tí, có bị chính quyền lừa mỵ đến mấy cũng đã bình tĩnh hơn mà suy xét sáng suốt cất giữ bảo tồn tài sản của mình vào những thứ đáng quý và thực chất, và đặc biệt là có giá trị ổn định khi giao dịch toàn cầu.

Ấy là vàng và đô la.

Bỗng dưng lại tưởng tượng có một tên cộng sản tư bản đỏ nào đó lại dựng ngược lên “Ờh đấy! Bọn tao đào tẩu thì phải cần vàng, cần đô la chứ. Dở người mà mang theo tiền đồng Việt Nam để làm giấy lộn àh. Lũ dân đen chúng mày thì đi đâu, cứ yên tâm mà dùng tiền Việt, nhá! Có bao nhiêu vàng, đô hãy mang ra đây, ông có nhà máy ông in tiền đồng ông đổi cho. Chúng mày mà không đổi đúng đầu nậu nhà ông là ông tịch thu hết đấy, nhân danh nhà nước hẳn hoi, nhá! ”

Hà Nội, 20.11.2012
Lê Thị Công Nhân
Tác giả gửi cho NTT's Blog

No comments:

Post a Comment

Tùy bút

H ình như thuở đó có một học sinh nghèo "ngoại đạo" mới vừa 16 tuổi, quê mùa nhút nhát, đang nuôi dưỡng một tình "yêu-hoa-cúc...