NEW DELHI – Nếu có một điều mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc thật sự nổi trội thì đó là việc sử dụng các công cụ kinh tế để thúc đẩy lợi ích địa chiến lược của nước họ. Thông qua sáng kiến “một vành đai, một con đường” $1000 tỉ Mỹ kim, Trung Quốc đang trợ giúp các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển nằm ở các vị trí chiến lược, thường bằng cách mở rộng các khoản vay lớn cho các chính phủ của họ. Kết quả là các nước đang bị rơi vào bẫy nợ nần khiến cho họ dễ bị Trung Quốc ảnh hưởng.
Tất nhiên, việc mở rộng các khoản vay cho các dự án cơ sở hạ tầng vốn không phải là xấu. Nhưng các dự án mà Trung Quốc đang tài trợ thường không có ý định nâng đỡ nền kinh tế địa phương, mà để tạo điều kiện cho Trung Quốc dễ dàng tiếp cận tài nguyên thiên nhiên, hoặc để mở cửa thị trường cho hàng hóa xuất khẩu kém phẩm chất, giá thành thấp của họ. Trong nhiều trường hợp, Trung Quốc thậm chí còn đưa công nhân xây dựng của chính họ làm giảm thiểu số lượng việc làm được tạo ra cho địa phương.
Một số dự án đã hoàn thành bây giờ đang chảy máu tiền. Ví dụ, Sân bay quốc tế Rajapaksa Mattala của Sri Lanka, mở cửa vào năm 2013 gần Hambantota, đã được gọi mỉa mai là sân bay vắng nhất thế giới. Tương tự như vậy, cảng Magampura Mahinda Rajapaksa ở Hambantota phần lớn vẫn để không, giống như cảng Gwadar nhiều tỉ đô la ở Pakistan. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, các dự án đang vận hành đúng như đòi hỏi: tàu ngầm tấn công của Trung Quốc đã hai lần cập bến Sri Lanka, và gần đây hai tàu chiến Trung Quốc đã tạm dùng sự an toàn của cảng Gwadar.
Theo một nghĩa nào đó, thậm chí sẽ là tốt hơn cho Trung Quốc khi các dự án không chạy tốt. Suy cho cùng, gánh nợ nần càng nặng cho các nước nhỏ thì đòn bẩy của chính Trung Quốc sẽ càng lớn thêm. Hiện tại, Trung Quốc đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan ngăn chặn một ASEAN đoàn kết chống lại việc Trung Quốc hung hăng theo đuổi các yêu sách lãnh thổ của họ ở biển Đông.
Hơn nữa, một vài quốc gia bị ngợp bởi các khoản nợ của họ đối với Trung Quốc, đang bị buộc phải bán cho họ các cổ phần trong các dự án do Trung Quốc tài trợ hay trao quyền quản lý cho các xí nghiệp quốc doanh Trung Quốc. Ở các nước có nhiều rủi ro về tài chính, Trung Quốc hiện nay đòi hỏi nắm đa số về sở hữu trước. Ví dụ, trong tháng này Trung Quốc đạt được một thỏa thuận với Nepal trong việc xây dựng một đập nước nữa do Trung Quốc sở hữu phần lớn ở đó, với Tập đoàn quốc doanh Tam Hiệp của Trung Quốc nắm 75% cổ phần.
Như thế vẫn chưa đủ, Trung Quốc đang thực hiện các bước để cầm chắc rằng các nước sẽ không thể thoát ra khỏi nợ nần. Để đổi lại việc gia hạn trả nợ, Trung Quốc hiện đòi hỏi các nước phải trao cho họ các hợp đồng cho các dự án bổ sung, qua đó làm cho cuộc khủng hoảng nợ của các nước này không dứt được. Tháng 10 năm ngoái, Trung Quốc xoá $90 triệu nợ cho Campuchia, chỉ để nắm được nhiều hợp đồng lớn mới.
Một số nền kinh tế đang phát triển đang hối hận về việc họ quyết định nhận vay nợ của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình đã nổ ra bởi tình trạng thất nghiệp tràn lan, do việc Trung Quốc chủ ý bán phá giá hàng hóa, đang giết chết sản xuất địa phương, và bị trầm trọng hơn do việc Trung Quốc nhập khẩu lao động cho các dự án của chính họ.
Chính phủ mới ở một số nước, từ Nigeria đến Sri Lanka, đã ra lệnh điều tra các cáo buộc Trung Quốc hối lộ cho các lãnh đạo cũ. Tháng trước, Zhao Lijian, quyền đại sứ Trung Quốc ở Pakistan, đã tham gia vào một vụ tranh cãi với các nhà báo Pakistan trên Twitter về những cáo buộc tham nhũng liên quan đến dự án và việc sử dụng tù nhân Trung Quốc sang làm lao động ở Pakistan (không phải là một cách làm mới đối với Trung Quốc). Zhao mô tả những cáo buộc trên là “vô nghĩa”.
Nhìn lại, những mưu đồ của Trung Quốc có vẻ rõ ràng. Nhưng quyết định của nhiều nước đang phát triển chấp nhận vay nợ của Trung Quốc, theo nhiều cách, là dễ hiểu. Bị các nhà đầu tư lơ là mà họ lại có những nhu cầu cơ sở hạ tầng lớn chưa được đáp ứng. Vì vậy, khi Trung Quốc chường mặt ra, hứa hẹn đầu tư rộng lượng và tín dụng dễ dàng, họ đều tham gia vào. Chỉ sau đó khi rõ ra mục tiêu thực sự của Trung Quốc là để thâm nhập thương mại và nắm đòn bẫy chiến lược; đến lúc đó thì đã quá muộn, và các nước đều đã bị kẹt vào vòng luẩn quẩn.
Sri Lanka là một ví dụ điển hình. Mặc dù nhỏ nhưng nước này nằm ở vị trí chiến lược giữa các cảng phía đông của Trung Quốc và các cảng Địa Trung Hải. Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã gọi nó là vị trí trọng yếu cho việc hoàn thành con đường tơ lụa trên biển.
Trung Quốc bắt đầu đầu tư mạnh ở Sri Lanka trong thời cầm quyền gần như độc đoán của Tổng thống Mahinda Rajapaksa, và Trung Quốc đã bảo bọc Rajapaksa khỏi những cáo buộc về tội ác chiến tranh tại Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc nhanh chóng trở thành nhà đầu tư và người cho vay đứng đầu của Sri Lanka, và là đối tác thương mại lớn thứ hai ở đây, cho Trung Quốc đòn bẫy ngoại giao đáng kể.
Mọi việc đều thuận buồm xuôi gió cho Trung Quốc, cho đến khi bất ngờ Rajapaksa bị đánh bại trong cuộc bầu cử đầu năm 2015 bởi Maithripala Sirisena, người đã vận động tranh cử với lời hứa sẽ giải thoát Sri Lanka khỏi bẫy nợ của Trung Quốc. Đúng như hứa hẹn, ông cho ngưng công việc đối với các dự án lớn của Trung Quốc.
Nhưng đã quá muộn: chính phủ Sri Lanka đã ở trên bờ vực vỡ nợ. Vì vậy, như một cơ quan ngôn luận nhà nước Trung Quốc đã quang quác, Sri Lanka không có lựa chọn nào khác ngoài việc “quay lại và ôm Trung Quốc trở lại.” Sirisena, cần nhiều thời gian hơn để hoàn trả các khoản vay cũ cũng như tín dụng mới, lẵng lặng chấp nhận một loạt các đòi hỏi của Trung Quốc, khởi động lại các sáng kiến bị đình chỉ, như dự án $1,4 tỉ cảng thành phố Colombo, và trao Trung Quốc nhiều dự án mới.
Sirisena cũng vừa đồng ý bán 80% cổ phần cảng Hambantota cho Trung Quốc với giá khoảng $ 1,1 tỉ. Theo đại sứ Trung Quốc tại Sri Lanka, Yi Xianliang, việc bán cổ phần trong các dự án khác cũng đang được thảo luận, để giúp Sri Lanka “giải quyết vấn đề tài chính của mình”. Bây giờ, Rajapaksa tố cáo Sirisena trao cho Trung Quốc những nhượng bộ quá mức.
Bằng cách kết hợp các chính sách an ninh, kinh tế và ngoại giao nước ngoài, Trung Quốc đang xúc tiến các mục tiêu hình thành một vùng thống trị về thương mại, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, và các liên kết an ninh. Do đó, nếu các quốc gia đang gánh chịu những mức nợ nặng nề thì nỗi lo tài chính của họ chỉ giúp cho các mưu đồ thực dân mới của Trung Quốc. Các nước chưa bị sập bẫy nợ của Trung Quốc nên lưu ý – và làm bất cứ điều gì họ có thể làm để tránh nó.
Tác giả: Brahma Chellaney
Dịch giả: Song Phan
(Nguồn: Ba Sàm)
Tất nhiên, việc mở rộng các khoản vay cho các dự án cơ sở hạ tầng vốn không phải là xấu. Nhưng các dự án mà Trung Quốc đang tài trợ thường không có ý định nâng đỡ nền kinh tế địa phương, mà để tạo điều kiện cho Trung Quốc dễ dàng tiếp cận tài nguyên thiên nhiên, hoặc để mở cửa thị trường cho hàng hóa xuất khẩu kém phẩm chất, giá thành thấp của họ. Trong nhiều trường hợp, Trung Quốc thậm chí còn đưa công nhân xây dựng của chính họ làm giảm thiểu số lượng việc làm được tạo ra cho địa phương.
Một số dự án đã hoàn thành bây giờ đang chảy máu tiền. Ví dụ, Sân bay quốc tế Rajapaksa Mattala của Sri Lanka, mở cửa vào năm 2013 gần Hambantota, đã được gọi mỉa mai là sân bay vắng nhất thế giới. Tương tự như vậy, cảng Magampura Mahinda Rajapaksa ở Hambantota phần lớn vẫn để không, giống như cảng Gwadar nhiều tỉ đô la ở Pakistan. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, các dự án đang vận hành đúng như đòi hỏi: tàu ngầm tấn công của Trung Quốc đã hai lần cập bến Sri Lanka, và gần đây hai tàu chiến Trung Quốc đã tạm dùng sự an toàn của cảng Gwadar.
Theo một nghĩa nào đó, thậm chí sẽ là tốt hơn cho Trung Quốc khi các dự án không chạy tốt. Suy cho cùng, gánh nợ nần càng nặng cho các nước nhỏ thì đòn bẩy của chính Trung Quốc sẽ càng lớn thêm. Hiện tại, Trung Quốc đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan ngăn chặn một ASEAN đoàn kết chống lại việc Trung Quốc hung hăng theo đuổi các yêu sách lãnh thổ của họ ở biển Đông.
Hơn nữa, một vài quốc gia bị ngợp bởi các khoản nợ của họ đối với Trung Quốc, đang bị buộc phải bán cho họ các cổ phần trong các dự án do Trung Quốc tài trợ hay trao quyền quản lý cho các xí nghiệp quốc doanh Trung Quốc. Ở các nước có nhiều rủi ro về tài chính, Trung Quốc hiện nay đòi hỏi nắm đa số về sở hữu trước. Ví dụ, trong tháng này Trung Quốc đạt được một thỏa thuận với Nepal trong việc xây dựng một đập nước nữa do Trung Quốc sở hữu phần lớn ở đó, với Tập đoàn quốc doanh Tam Hiệp của Trung Quốc nắm 75% cổ phần.
Như thế vẫn chưa đủ, Trung Quốc đang thực hiện các bước để cầm chắc rằng các nước sẽ không thể thoát ra khỏi nợ nần. Để đổi lại việc gia hạn trả nợ, Trung Quốc hiện đòi hỏi các nước phải trao cho họ các hợp đồng cho các dự án bổ sung, qua đó làm cho cuộc khủng hoảng nợ của các nước này không dứt được. Tháng 10 năm ngoái, Trung Quốc xoá $90 triệu nợ cho Campuchia, chỉ để nắm được nhiều hợp đồng lớn mới.
Một số nền kinh tế đang phát triển đang hối hận về việc họ quyết định nhận vay nợ của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình đã nổ ra bởi tình trạng thất nghiệp tràn lan, do việc Trung Quốc chủ ý bán phá giá hàng hóa, đang giết chết sản xuất địa phương, và bị trầm trọng hơn do việc Trung Quốc nhập khẩu lao động cho các dự án của chính họ.
Chính phủ mới ở một số nước, từ Nigeria đến Sri Lanka, đã ra lệnh điều tra các cáo buộc Trung Quốc hối lộ cho các lãnh đạo cũ. Tháng trước, Zhao Lijian, quyền đại sứ Trung Quốc ở Pakistan, đã tham gia vào một vụ tranh cãi với các nhà báo Pakistan trên Twitter về những cáo buộc tham nhũng liên quan đến dự án và việc sử dụng tù nhân Trung Quốc sang làm lao động ở Pakistan (không phải là một cách làm mới đối với Trung Quốc). Zhao mô tả những cáo buộc trên là “vô nghĩa”.
Nhìn lại, những mưu đồ của Trung Quốc có vẻ rõ ràng. Nhưng quyết định của nhiều nước đang phát triển chấp nhận vay nợ của Trung Quốc, theo nhiều cách, là dễ hiểu. Bị các nhà đầu tư lơ là mà họ lại có những nhu cầu cơ sở hạ tầng lớn chưa được đáp ứng. Vì vậy, khi Trung Quốc chường mặt ra, hứa hẹn đầu tư rộng lượng và tín dụng dễ dàng, họ đều tham gia vào. Chỉ sau đó khi rõ ra mục tiêu thực sự của Trung Quốc là để thâm nhập thương mại và nắm đòn bẫy chiến lược; đến lúc đó thì đã quá muộn, và các nước đều đã bị kẹt vào vòng luẩn quẩn.
Sri Lanka là một ví dụ điển hình. Mặc dù nhỏ nhưng nước này nằm ở vị trí chiến lược giữa các cảng phía đông của Trung Quốc và các cảng Địa Trung Hải. Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã gọi nó là vị trí trọng yếu cho việc hoàn thành con đường tơ lụa trên biển.
Trung Quốc bắt đầu đầu tư mạnh ở Sri Lanka trong thời cầm quyền gần như độc đoán của Tổng thống Mahinda Rajapaksa, và Trung Quốc đã bảo bọc Rajapaksa khỏi những cáo buộc về tội ác chiến tranh tại Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc nhanh chóng trở thành nhà đầu tư và người cho vay đứng đầu của Sri Lanka, và là đối tác thương mại lớn thứ hai ở đây, cho Trung Quốc đòn bẫy ngoại giao đáng kể.
Mọi việc đều thuận buồm xuôi gió cho Trung Quốc, cho đến khi bất ngờ Rajapaksa bị đánh bại trong cuộc bầu cử đầu năm 2015 bởi Maithripala Sirisena, người đã vận động tranh cử với lời hứa sẽ giải thoát Sri Lanka khỏi bẫy nợ của Trung Quốc. Đúng như hứa hẹn, ông cho ngưng công việc đối với các dự án lớn của Trung Quốc.
Nhưng đã quá muộn: chính phủ Sri Lanka đã ở trên bờ vực vỡ nợ. Vì vậy, như một cơ quan ngôn luận nhà nước Trung Quốc đã quang quác, Sri Lanka không có lựa chọn nào khác ngoài việc “quay lại và ôm Trung Quốc trở lại.” Sirisena, cần nhiều thời gian hơn để hoàn trả các khoản vay cũ cũng như tín dụng mới, lẵng lặng chấp nhận một loạt các đòi hỏi của Trung Quốc, khởi động lại các sáng kiến bị đình chỉ, như dự án $1,4 tỉ cảng thành phố Colombo, và trao Trung Quốc nhiều dự án mới.
Sirisena cũng vừa đồng ý bán 80% cổ phần cảng Hambantota cho Trung Quốc với giá khoảng $ 1,1 tỉ. Theo đại sứ Trung Quốc tại Sri Lanka, Yi Xianliang, việc bán cổ phần trong các dự án khác cũng đang được thảo luận, để giúp Sri Lanka “giải quyết vấn đề tài chính của mình”. Bây giờ, Rajapaksa tố cáo Sirisena trao cho Trung Quốc những nhượng bộ quá mức.
Bằng cách kết hợp các chính sách an ninh, kinh tế và ngoại giao nước ngoài, Trung Quốc đang xúc tiến các mục tiêu hình thành một vùng thống trị về thương mại, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, và các liên kết an ninh. Do đó, nếu các quốc gia đang gánh chịu những mức nợ nặng nề thì nỗi lo tài chính của họ chỉ giúp cho các mưu đồ thực dân mới của Trung Quốc. Các nước chưa bị sập bẫy nợ của Trung Quốc nên lưu ý – và làm bất cứ điều gì họ có thể làm để tránh nó.
Tác giả: Brahma Chellaney
Dịch giả: Song Phan
(Nguồn: Ba Sàm)
No comments:
Post a Comment