II) – Âm Mưu Thâm Hiểm Của Giới cầm Quyền Bắc Kinh
1) – Ðường Lối Của Tàu
a) Kiểm điểm lịch sử :
Lịch sử Á Châu từ cổ đại đến nay trải qua đến 5000 năm, là lịch sử của cuộc tranh đấu không khoan nhượng giữa Hán tộc và Bách Việt. Các nhánh khác của Á Châu chỉ trở thành thế lực lớn trong thế kỷ qua khi văn minh Phương Tây tràn đến Á Châu mà thôi. Nhưng khi văn minh Phương Tây vì một lý do gì đó giảm nhẹ ảnh hưởng của mình để Á Châu vươn lên, thì cuộc tranh chấp giữa Hán tộc và Bách Việt lại mau chóng trở thành một chủ đề gây nhiều tranh cãi và có cơ bùng nổ lớn làm thay đổi cục diện trong vùng và hẳn nhiên là cả thế giới nữa.
Không một chủng tộc nào ở Á Châu có nhiều kinh nghiệm đấu tranh với Hán tộc hơn Bách Việt, mà Việt Nam là hậu duệ chân truyền. Hán tộc cũng hiểu rằng : Chưa bẽ gãy được ý chí của người Việt Nam để biến Việt Nam thành một tỉnh lỵ của mình, thì Hán tộc không thể yên được và không thể thực hiện tham vọng chiếm đóng Á Châu. Lịch sử đã để lại cho cả hai phía nhiều bài học để đời. Ðối với Hán tộc thì cho dù chúng dùng mưu thần, chước quỷ gì đi nữa, nhưng mỗi lần đụng độ với dân Việt là mỗi lần Hán tộc đều bị thua trận và càng ngày càng thua trận đau hơn. Với dân Việt mỗi khi Tàu thống nhất, thì chắc chắn rằng chúng sẽ đánh Việt Nam để thị uy và thoả mãn tham vọng bành trướng lãnh thổ. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi Tàu mạnh thì tức khắc anh hùng hào kiệt của Việt Nam đều hợp sức lại để bẽ gãy mưu đồ thâm độc của Hán tộc.
Bốn bài học lịch sử (chỉ lấy bốn bài học tiêu biểu) mà đất nước ta đã trải qua trong 1000 năm đụng độ với Tàu, đã chỉ cho chúng ta thấy : « Nếu muốn tồn tại, chúng ta phải mạnh về cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác về các âm mưu thâm độc do Bắc Kinh gây ra cho chúng ta và cho tất cả các lân bang của Tàu, việc xưa đã vậy, việc nay cũng không khác ».
Trong điều kiện của thế giới hôm nay, chúng ta phải cần tìm hiểu về Tàu một cách toàn diện trong bối cảnh các quan hệ quốc tế ngày càng trở nên phức tạp, đầy các mâu thuẫn, quyền lợi của các phía được đan chéo với nhau trong một thế giới chẳng có tôn ty trật tự gì cả. Thế chiến II đã phế bỏ các đế quốc kiểu cũ và tạo ra cuộc chiến tranh lạnh. Nay cuộc chiến tranh lạnh đã chấm dứt và tạo ra một khoảng trống quyền lực một cách lớn lao, thì đây là một cơ hội cho các thế lực tong quyền cực đoan nhân danh tông giáo (Hồi Giáo là một ví dụ) trỗi dậy và cũng là cơ hội để chủ nghĩa xâm lược bành trướng Hán tộc bộc phát trên quy mô toàn Á Châu và hiện đang có dấu hiệu lan sang đến nhiều vùng khác, kể cả Nam Mỹ, Châu Phi.
Tự ngàn xưa người Tàu luôn luôn tìm cách chiếm đoạt, đồng hoá hay tiêu diệt và ăn cướp văn minh của người khác để nhận làm văn minh của mình. Ðây là sách lược xuyên suốt trong chiều dài lịch sử của Hán tộc. Ta tự hỏi : Bao nhiêu dân tộc cùng tồn tại trong lãnh thổ mà ta gọi là “Trung Hoa” ngày nay đã từng bị Hán tộc thôn tính và đồng hoá ? Con số ấy không thể dưới 100 dân tộc. Khi Mông Cổ thôn tính gần như toàn bộ Á Châu (ngoại trừ Việt Nam và Nhật) và một phần Âu Châu, tạo ra một đế quốc rộng lớn nhất hoàn cầu vào thế kỷ 13 (Mông Cổ 2 triệu ruỡi dân đã chiếm toàn lãnh thổ Trung Hoa 80 triệu dân trong vòng 90 năm, thái độ khiếp nhược của Nho sĩ Trung Hoa đã khiến Mông Cổ khinh miệt và xếp họ dưới gái điếm, chỉ trên ăn mày – 8 gái điếm, 9 Nho sĩ, 10 ăn mày), thì cuối cùng Mông Cổ cũng bị Tàu đồng hoá một phần (Nội Mông ngày nay). Mãn Châu thôn tính toàn bộ nước Tàu, lập ra nhà Thanh (dưới sự điều khiển của quân sư Phạm Văn Trình, Mãn Châu 1 triệu dân đã diệt triều đại nhà Minh 150 triệu dân và đặt nền đô hộ Trung Hoa gần 3 thế kỷ từ 1616 đến 1911), nhưng cuối cùng thì Mãn Thanh cũng bị Tàu đồng hoá. Căn nguyên chính yếu là vì họ không giữ bản sắc riêng của mình mà lại mang dân tộc mình hoà vào dòng Hán tộc, một giống dân chuyên đi thôn tính và đồng hoá kẻ khác.
Người Tàu không lật đổ các triều đại ngoại lai ấy bằng chính sức mạnh của mình khi các triều đại ấy đang trong giai đoạn sơ khai hoặc trong giai đoạn chiếm đóng, mà phải chờ cho các triều đại ngoại lai ấy suy thoái, thì thế lực nội địa mới trỗi dậy để nắm lấy quyền lực (nhà Minh hay Tôn Dật Tiên cũng thế thôi). Tinh thần quốc gia của Tàu rất yếu (vì dân Tàu là sự kết hợp cưỡng ép giữa Hán tộc và trên 100 dân tộc khác đã bị Hán tộc chiếm đất và đồng hoá bằng bạo lực) nên phải cai trị bằng bạo lực là vậy.
Khi súng đạn, kỹ thuật của Âu Châu tràn tới Á Châu vào thế kỷ 19 thì nước Tàu chỉ bị xâu xé tại một số vùng nằm dọc theo duyên hải (Hong Kong, Ma Cao, Thượng Hải v.v.v) nhưng triều đình nhà Thanh vẫn tồn tại. Họ tồn tại mà không bị đô hộ toàn diện chẳng phải vì người Tàu tài giỏi gì, mà vì lục địa Tàu đủ rộng lớn để các thế lực Âu Châu không thể tiến hành việc thôn tính như Ấn Ðộ được. Ngoài ra thế lực Anh-Pháp sau khi tới Á Châu thì một thời gian sau cũng đã đuối sức (so với sức mạnh của Âu Châu thời đó). Vả lại nếu tiến quá sâu vào trong Á Châu thì những tuyến tiếp vận lại quá xa, ấy là chưa kể đến việc tiến vào Á Châu quá sâu thì sẽ tạo ra mối đe doạ với Nga và Nga sẽ phải phản ứng. Ðây là một điều mà Anh-Pháp không muốn xảy ra. Cho nên nước Tàu có một thời gian tương đối ổn định để họ vừa có cơ hội tiếp xúc với Phương Tây nhưng vẫn gìn giữ được truyền thống Hán tộc của họ, đồng thời có thể thi hành một số biện pháp nhằm can thiệp vào tình hình tại các nước lân bang của mình hầu chờ cơ hội quật khởi.
Cơ hội ấy là lúc các mâu thuẫn trong lòng các xã hội Âu Châu và giữa các quốc gia Âu Châu với nhau ngày càng trở nên gay gắt (vấn đề chính là giữa giới thợ thuyền và chủ nhân, vấn đề thứ hai là giữa Ðức với hai thế lực chính yếu ở Âu Châu là Anh và Pháp). Tình hình này dẫn đến Thế Chiến I và II và cuộc chiến tranh lạnh sau đó.
Người Tàu đã biết lợi dụng cơ hội này để ngoi lên nhằm cố gắng xác định vai trò của mình, như là thế lực chủ yếu chi phối tình hình Á Châu, nhiên hậu có thể thành một thế lực có khả năng tam phân thiên hạ với Mỹ và với Âu Châu nói chung (Nga cũng chỉ nằm trong trụ thứ ba của Âu Châu dưới mắt các chiến lược gia Tàu). Ðể đạt được mục đíchh tối hậu ấy, nước Tàu có hai chủ trương :
a1)Tìm mọi cơ hội để tiếp thu được học thuật Phương Tây nhằm canh tân nước Tàu về mọi mặt (kinh tế, kỹ thuật, chính trị, quân sự).
a2)Ra sức đặt nền móng cho việc thôn tính Hán hoá các lân bang, để từng bước tiến tới việc biến các quốc gia này thành một tỉnh của Tàu (nhìn gương Tây Tạng thì rõ. Tây Tạng đã bị thôn tính bằng võ lực để trở thành một tỉnh của Tàu. Dân Tây Tạng bị đàn áp dã man, thô bạo, nền văn hoá lâu đời của Tây Tạng bị huỷ diệt, dân Hán đã tràn sang và nắm mọi sinh hoạt của xã hội Tây Tạng), nhằm mở rộng vòng đai bảo vệ Bắc Kinh (trung tâm quyền lực Hán tộc). Nếu chiến tranh xảy ra thì các tỉnh ở vòng ngoài phải chịu hy sinh chết chóc nhưng đầu não Hán tộc vẫn an toàn.
Nếu thế lực ngoại bang mạnh thì Tàu hy sinh các tỉnh ở vòng ngoài nhưng cố thủ ở trung tâm, để chờ cơ hội quật lại khi các thế lực ngoại bang mâu thuẫn nhau hay yếu đi (lịch sử như vậy đã xảy ra nhiều lần, vừa mới đây điều này cũng đã xảy ra khi Pháp chủ trương Liên u nên bãi bỏ cấm vận vũ khí với Tàu). Tuỳ theo đà mâu thuẫn mà Tàu sẽ tìm cách tiến lên ngôi vị chi phối toàn cầu về mọi mặt để cuối cùng thì Hán hoá toàn cầu.
Ý đồ chiến lược này không phải hình thành một cách toàn diện bằng việc trí thức Tàu thẩm định lịch sử để đề ra một chính lược toàn diện trong đường dài. Nó là kết quả của nhiều bài học lịch sử đã diễn tiến trong hơn 150 năm qua với việc :
- Ðại uý Francis Garnier đem quân vô Hà Nội thì nhà Thanh cho tướng Lưu Vĩnh Phúc đem quân vô Việt Nam để chống Pháp (nhà Nguyễn quá yếu kém về trí tuệ trong chuyện này). Khi Francis Garnier bị quân Tàu giết thì Pháp phải nhượng bộ.
- Anh, Pháp, Ðức, Nga … quá phân hoá nên không dám xâm lăng Tàu toàn diện. Hoa Kỳ có sức mạnh cực lớn vào đầu thế kỷ 20 tỏ ra sẵn sàng giúp Tàu, hoặc ít ra không có ý định biến Tàu thành thuộc địa, vì vậy Tàu có thể dùng chiến thuật “bẽ đũa từng chiếc một” để tạo đồng minh và tiếp thu trợ giúp về kỹ thuật.
- Trong các vấn đề quốc tế, Tàu chủ trương dựa vào thế lực nọ để thương thuyết hay bắt bí thế lực kia hầu thủ lợi, ai chết mặc kệ. Tàu không ra mặt đối đầu trực tiếp với bất cứ thế lực mạnh nào cho tới khi nước Tàu đủ mạnh và chỉ trong điều kiện không còn phương cách tránh né để thủ lợi nào khác thì Tàu mới phải phát động chiến tranh. Khi phát động chiến tranh thì đạo quân thứ 5 của Bắc Kinh là những người Tàu ở hải ngoại sẽ là lực lượng toàn bích kết hợp chính trị, quân sự, kinh tế, tình báo, phá hoại, gián điệp, lật đổ để biến các lân bang xa gần thành những quốc gia ngoại vi hay là cánh tay nối dài của Tàu.
Nhưng để đạt được các ý đồ chiến lược này, nước Tàu phải được canh tân và cải cách để thích nghi với tình thế mới của thế giới vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20. Sự canh tân và cải cách này được thực hiện bởi Tôn Văn (Tôn Dật Tiên) khi ông ta đề ra “Tam Dân Chủ Nghĩa”. Nhưng khi cao trào Cộng sản chủ nghĩa thắng lợi ở Nga vào năm 1917, nhất là khi Quốc Tế Cộng Sản III (Cộng sản đệ tam) hô hào đảng Cộng sản tại các quốc gia thuộc thực dân, phải có nghĩa vụ xây dựng và củng cố các đảng Cộng sản ở các quốc gia thuộc địa, để hình thành trận tuyến quốc tế Cộng sản nhằm đánh sập chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn cầu, thì nước Tàu bị chia ra làm hai khuynh hướng nhưng cũng chỉ có cùng một mục tiêu : Ðó là xâm lăng và Hán hoá lân bang. Họ Mao (Mao Trạch Đông) nghĩ rằng : Tuyệt đại đa số dân Tàu là nông dân nghèo khó, vậy muốn bành trướng thế lực thì nước Tàu phải xử dụng chủ nghĩa Cộng sản như là một công cụ tối thượng để thống nhất lòng dân từ đó thôn tính lân bang. Vì vậy, Mao coi Quốc Dân Ðảng Tàu là đảng của người giàu, tay sai cho ngoại bang cho nên Quốc Dân Đảng không thể thực hiện được ý đồ chiến lược to lớn ấy. Dĩ nhiên Mao và những người theo Mao cũng thấy rõ là : Cuộc chiến tranh giữa Cộng sản Quốc tế do Liên Xô lãnh đạo và khối Tư Bản do Hoa Kỳ lãnh đạo là không thể tránh được. Vì thế, lãnh đạo Tàu đã lợi dụng chiến tranh để bành trướng thế lực là vậy.
b) Quốc Dân Ðảng Tàu và Cộng Sản Tàu
Chúng ta cần phải phân biệt thuyết Tam Dân (sic) do Tôn Văn chủ trương với Quốc Dân Ðảng Tàu. Mao Trạch Đông không phải là không đồng ý với Tôn Văn, mà là không đồng ý với Tưởng Giới Thạch trong việc thi hành đường lối bành trướng Hán tộc, mặc dù mục tiêu tối hậu của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông là Hán hoá toàn nhân loại như đã trình bày ở trên.
2 – Cái nhìn sâu sắc của Cụ Lý Đông A về hiểm hoạ Tàu
Ðể minh chứng cho điều này, ta cần phải ghi ra đây điều mà Cụ Lý Ðông A đã thẩm định về chính trị lộ tuyến của Quốc Dân Ðảng Tàu (Trung Hoa) như thế nào :
* – Ðối Tàu : Muốn biết lập trường của mình đối với người và người đối với mình, sự tự xem mình đã cần, sự xem người trên hết các xu hướng của phát triển lịch sử, cũng là chính trị lộ tuyến của người về phía mình một mặt còn rất cần.
Trung tâm quy luật của lịch sử Tàu là : “Hữu đức giả hữu thổ” ; hữu đức đây không phải là đạo đức, nhưng lấy ý nghĩa nghiêm ngặt của nó trong kinh sử Tàu mà giảng giải thì nó là lấy tài hoá thu nhân tâm. Cái quy luật đó đem phối hợp với ý chí của dân tộc ấy là “hưng Hoa diệt Di”, hình thành một cái định nghĩa của một tấm lịch sử xâm lược. Cái nguyên tắc chủ yếu từ cổ tới nay đã từng thực hành mà còn có thể nói có chứng cớ rằng vẫn thực hành. Bằng cứ sự đem ra thực tiễn các kho nguyên tắc này là kinh sử vẫn thấy nhan nhản. Kinh sử vốn là miệng lưỡi thanh giáo nhà nho. Kinh sử vốn là miệng lưỡi của cái thanh giáo nhà nho làm trung kiên cho xã hội quan liêu dân chủ, trung lưu tư sản phong kiến của cái thiên hạ đại đồng chủ nghĩa lối Hán, mà vũ khí và thủ đoạn chủ yếu là chủng tộc xâm lược. Chủng tộc được suy tiến theo lối “tam niên dưỡng nhi giáo chi tất giai ngô dân”, văn hoá đựơc suy tiến sau chủng tộc làm sự duy hệ và thế thủ sau thế công : “tuần tuyên văn giáo, thủ tại tứ Di”, kinh tế theo sau nữa : “hữu đức giả hữu thổ” mà chính trị chiếm lĩnh là cần yếu hơn “phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ” tất cả đều phục tòng dưới lưỡi lê : “nhưỡng Di Địch, phạt Man Khương”.
Nếu không tin mà còn tin vào Khổng Mạnh, xin hãy dở pho sử muôn năm của ta vơi tất cả thảm thương sỉ nhục của sự bị đè nén, bị xâm lược, bị hiếp tróc ; lại xin tham khảo lịch sử của các dân tộc Man Di bốn phía Tàu. Quốc dân, chính trị gia và cách mạng gia hãy dở lại cái quan hệ của sự giúp đỡ cách mạng lẫn nhau giữa nòi giống ta và nòi giống Hán, hãy thể nghiệm cái sầu hận đời Hậu Trần và Lê Chiêu Thống, hãy tiếc róc cái đối đãi tốt của ta đối với lũ Hậu Tống, Hậu Minh.
Còn có kẻ thân Tàu, sùng bái Khổng Mạnh, ủng hộ Tôn Văn, nói rằng việc cũ bỏ đi, trăm điều phải trông vào xu hướng mới. Cái xu hướng mới của Cách Mạng Tân Hợi (1911) tức là sự chuyển hình của một đế quốc lối Á Đông phong kiến, sang lối dùng những tinh thần và vật chất vũ khí của các đế quốc tư bản lối Âu Châu.
Hãy xem Đảng Quốc Dân Tàu hiện làm chủ trào lưu của chính trị lộ tuyến và xu hướng nước ấy. Sự quyết định chính sách của mỗi đảng hay mỗi nước còn căn cứ vào cái thành phần xã hội của đảng hay nước ấy, tự nó giải nghĩa hết và quy định hết các hành vi hay tâm lý để rồi hãy xem đến quốc sách với chủ trương sau. Nền tảng của Quốc Dân Đảng Tàu bao gồm một giai cấp từ trung tư bản đến đại tư bản trở lên cầm đầu bởi lũ quân phiệt, tư bản nho sĩ, đè nén tiểu tư sản và vô sản giai cấp, mua chuộc sự thoả hiệp với đế quốc bên ngoài, mong học đòi cái kết cấu ấy quyết định con đường tư bản đế quốc chủ nghĩa, phối hợp với chủng tộc thiên hạ chủ nghĩa cũ mà nảy nở ra một hình thức đế quốc chủ nghĩa Tam Dân. Tam Dân chủ nghĩa chỉ là một chủ nghĩa chủng tộc xâm lược, hơn nữa là một chủ nghĩa xâm lược thế giới. Đã biết rằng Tam Dân chủ nghĩa là thủ đoạn đó, sự phân tích dân tộc chủ nghĩa là đặc biệt cần yếu (chú ý : dân tộc chủ nghĩa của Tam Dân). Dân tộc chủ nghĩa ấy tóm tắt 5 yếu điểm này :
A. TC dân tộc tự cầu giải phóng hay là nòi Hán tự cầu đổi lốt.
B. Quốc nội dân tộc nhất luật bình đẳng.
Khoảng năm 1885 cách mạng Tôn Văn ra đời, cực lực chủ trương chủng tộc. Lúc bấy giờ y đề xướng ra nòi Hán diệt nòi Mãn, rồi lãnh đạo nòi khác ở Á Đông, chưa bị hay hiện bị dưới ách của Tàu. Sự dập gẫy làm y giảm bớt sự quá khích mà đề xướng Ngũ Tộc Cộng Hoà (khoảng Tân Hơi 1911). Ngũ Tộc Cộng Hoà chỉ là một liều thuốc độc bọc bánh ngọt, bởi vì nếu kể về nhân khẩu trong đất Tàu thì 90 % là Hán còn 10 % là các nòi Mãn, Mông, Tạng và Miêu (Việt núi). Như thế thì chế độ Ngũ Tộc Cộng Hoà dung túng cho số đông nuốt số ít mà số đông ấy càng được đông người và thêm đất, hợp với mục đích lập quốc lắm. Nhưng bệnh quá khích lại nổi dậy để Tôn Văn (khoảng năm 1916) đề xướng ra luận quốc tộc. Quốc tộc là gì ? Để Tôn Văn tự giải nghĩa. Là : đúc các dân tộc vào một lò mà thống nhất thế giới. Sự yêu cầu đồng hoá bằng áp bách và hiếp tróc các dân tộc chung quanh là như thế. Còn một điểm cần chú ý trong tập “Kiến Quốc Đại Cương” nó bày tỏ cái mâu thuẫn của dã tâm đó càng bộc lộ là đã nói để các dân tộc nhỏ yếu trong nước được bình đẳng, tự quyết mà nguyên tắc kiến quốc tối cao lại quy định đem chia toàn quốc ra tỉnh, quận, huyện. Sự quy định ấy giá trị một lò đồng hoá người.
C. Liên hiệp nhược tiểu, cộng kháng cường quyền, nó là một bãi nhổ chua chát vào mặt các nòi giống nhỏ yếu toàn thế giới, bằng sự liên hợp ấy làm dưới Đại Á Tế Á chủ nghĩa của Tôn Văn (khoảng năm 1921-1922). Tôn Văn nói : “Ta phải đem các dân tộc Thái, Việt … liên hợp lại cùng chống đế quốc” (chú ý đến chữ “đem” và “liên hợp”). Ấy đấy sự liên hợp như vậy, nghĩa là đem mà thôn tính vào, tất nhiên cái truyền thống “thủ tại tứ Di” với cái thuật ngữ “sinh tồn không gian” làm cho người Hán ngớp đất Nam Dương nhiều nhất.
D. Hưng diệt kế tuyệt, cứu nhược phù khuynh, gọi là lý tưởng ngoại giao của lễ vận đại đồng của họ, nhưng đó chỉ là một chiêu bài giả đạo đức bao trùm cái sự thực can thiệp đến đời sống người khác và bắt ép các nòi giống nhỏ yếu thế nhập đảng Tàu và tôn phù chủ nghĩa Tam Dân để mà đi đến mục đích cuối cùng là :
Đ. Hoàn thành kiến thiết thế giơi đại đồng, nghĩa là xâm lược thế giới là bước cuối cùng của chủ nghĩa. Dân Sinh với Dân Quyền là những hộc lương, xẻng đất và súng ống đeo lên lưng Dân Tộc chủ nghĩa để đi trên con đường năm chặng trên kia, bất tất luận.
Nhưng nếu có người trách tôi là nhiễu sự và moi móc thì nên hiểu rằng ta phải cùng lý để mà tri ngôn, lời nói đa số là mặt nạ, phải dò đến bối cảnh và động cơ của các lời nói ấy mơi biết rõ cái hành động tiềm tàng trong bản vị. Còn nhớ Tôn Văn nói với cụ Phan : “Các ông bất tất phải làm, Việt Nam chỉ là một tỉnh của Tàu, chúng tôi làm xong thì xong”. Cũng như họ Tưởng bây giờ nuôi mấy đứa Việt gian và nói rằng : Việt Nam là Tàu, Việt Nam để người Tàu làm giúp cho”. Thử hỏi khi Tàu đổ bộ trên đất này, bao nhiêu quyền hành về tay Hoa kiều cả, binh sĩ bị hỗn hoá với lính Tàu thì thi hành kế gì để đuổi chúng về ?
Nhưng nếu lại còn nghi nữa, cho rằng đấy chỉ đứng về lý luận mà quan sát, cần biết rõ những hành động thưc tế của chính phủ ấy thì những chứng cớ thực tiễn, ta lại phải bày tỏ ra đây để cùng chứng minh cho sự thực là sự thực, phải là sự thực hay sẽ là sự thực :
— Dư luận dưới sự chỉ đạo của đảng Quốc Dân Tàu, nói về vấn đề Việt Nam chỉ có hai câu trên trăm nghìn muôn miệng là : Việt Nam là thuộc địa của Tàu, ta phải thu phục lại đất mất cũ của ta là Việt Nam.
— Giáo dục để nuôi cái xu hướng chính trị trong mầm mống nòi giống cũng chỉ có hai câu đó suốt từ ấu học đến đại học.
Học thuật và lý luận chỉ đạo của lịch sử học tiến từ “Quốc Tộc Luận” và “Hán tộc ưu việt” đến “Quốc Quân Sử luận” một ngày một tăng tiến đến lĩnh vực của dã tâm.
— Chính Trị Địa Lý Bộ, tức là bộ tham mưu chính trị quy định chính lược và chiến luợc. Bộ ấy ở Trùng Khánh năm 1940 lên tiếng ra bộ “Ðông Á Địa Lý” quy định tám con đường phát triển của nòi Hán sau này :
1) Tây Bá Lơi Á
2) Tây Tạng, Ba Tư.
3) Tân Cương.
4) Ấn Độ
5) Việt, Thái, Miến, Tân Gia Ba.
6) Nam Dương liệt đảo.
7) Úc Châu.
8)Thái Bình Dương Đông liệt đảo, Hàn.
Nhưng mà sự chuẩn bị quân sư để nhập Việt có thể moi móc cái tim ruột, cái mục đích của cuộc hành quân này, mặc dầu là đi giải phóng, bằng sự phát quật các chiến lệnh trong quân, ngoài dân do bộ tuyên truyền và quân chính bí mật phát bố ra :
1) Lộ ố Nàm phồ (lấy vợ An Nam ).
2) Dìu ố Nàm sìn (tiêu tiền An Nam ).
3) Chì ố Nàm tì (ở đất An Nam ).
— Kiều Vụ Chính Sách : tức là tiền phong của ngoại giao xâm lược. Ngày 01/0571933, tờ Đại Lộ Nguyệt San ở Thựơng Hải đăng một cuộc “Nam Dương Hoa Kiều Cộng Hoà Quốc vận động” chủ trương lấy Hoa kiều làm chủ lực lập quốc, xâm lựơc lấy toàn đất Nam Dương lập thành Hoa kiều Cộng Hoà Quốc, trong đó có quy định về Việt Nam : Bắc Kỳ quy về mẫu quốc, Trung Kỳ và Nam Kỳ thuộc về Hoa kiều thống trị. Nước ấy sau khi đồng hoá hết thổ dân rồi sẽ hợp nhất với mẫu quốc. Cái suy luận ấy suy động bởi Quốc Dân Đảng Tàu, cũng như ngày 1942/11/26 trên tờ Quảng Tây Nhật Báo một nhà Kiều Vụ Uỷ Viên Trung Ương có tiếng đề xướng ra “Hoa kiều thổ hoá vận động” quy định rằng bề mặt phải thổ hoá, nghĩa là người Hoa kiều phải ăn mặc theo người thổ dân, nói tiếng người thổ dân, ảnh hưởng văn hoá người thổ dân để bề trong tăng mạnh thêm tác dụng Hoa hoá.
Chính sách chiến hậu của người Tàu theo đúng như mục tiêu chính trị trên, đối trong hết sức tăng gia quân bị, trọng công nghiệp và đào tạo một quốc dân hoàn toàn Ban Siêu và Mã Viện thưc dân, khi ấy đối ngoài phải tranh đòi quyền lợi Hoa hoá cho Hoa kiều và đối đãi với các nước phiên thuộc cũ theo một chế độ mới. Sự Tôn Khoa yêu cầu ở Hoa Thịnh Đốn chiếm lĩnh Việt với Hàn chứng thực rằng họ muốn nối gót đế quốc, xây đắp một liên hiệp “Thập quốc” đòi đứng làm môi giới giữa Đông Tây (ngoại giao tay trên) và làm sức an định (tiếng thuật ngữ của đế quốc Anh) cho Đông Á (nghĩa là bá chiếm), đồng thời đòi thực hành bảo hộ mậu dịch chính sách (ăn cắp chính sách bloc).
Họ hiện nay đang dang hai chân, một chân đứng về đế quốc, một chân đứng về nhược tiểu để mà đóng vai “con trời” trên thế giới. Sự giúp đỡ De Gaulle và nể sợ Pétain đi đôi với sự ngược đãi cách mệnh Việt tỏ rõ rằng họ muốn làm cường quốc và đứng về phe liệt cường để quay giáo lại các nước nhỏ yếu. Đối riêng Việt Nam, họ đang nghiên cứu cách nào lập thành một tỉnh, nuôi Việt gian thế nào, diệt chữ quốc ngữ thế nào, tiễu trừ dân tộc ý thức cách nào, làm sao cho người Việt tưởng mình là Hán, khôi phục chữ nho thế nào, truyền bá Tam Dân chủ nghĩa thế nào, thống trị thế nào ? Hỡi người Hán ! Hãy quay lại mà dùng cách thực dân truyền thống nhà Minh đã văn minh chán, thử xem người Việt sẽ biết đối phó cách nào ?
Chúng ta hãy quay về mình xem hình thể của tự mình. Đất ta là đất cơ sở của Thái Bình Dương, trung tâm của Đông Nam Á, tư lệnh đài của quốc tế, được ta thì tiến lên xưng bá loài người, lui về tự thủ muôn thuở, bất cứ trên chính trị, quân sự, kinh tế, chiến lược, văn hoá đều đứng vào thiên hiểm của trung tâm. Cho nên tự phần ta nên hiểu : đời nay nếu ta muốn sống phải hết sức mạnh mà ta hững hờ thì tất diệt. Lại đời nay, diệt tức là toàn diệt đó. Ta chớ nên hòng làm Hoà Lan hay Thuỵ Sĩ ; bọn thân Tàu tất cũng diệt hết đi chớ để nó làm tay trong như Phần Lan với Nga. Ta còn nguy hiểm hơn Phần Lan đối với Nga nhiều. Phần Lan chỉ có một Nga, ta còn phải phòng cả thế giới, vì thế giới kẻ nào chiếm đựơc ta mơi xưng bá được lâu dài ; tiện nhất và thẳng đừơng nhất là Tàu, ta là cái xương hóc giữa cổ họng chú chiệc, phải hiểu thế.
Hiện giờ đây nòi Hán đã và đang còn tiếp sẽ uy hiếp đến sinh mệnh ta. Chúng ta thử tính xem số Hoa kiều trong nứơc ngoài 60 vạn, hợp với số minh hương hơn 2 triệu, một số 3 triệu nội gián ấy trên mặt nhân chủng quen thói lấy vợ người mà giữ gái mình, ảnh hưởng tới sinh lý của nòi giống là thế nào ? Sự lũng đoạn kinh tế của bọn Hoa kiều mới lớn, từ đô thị đến ngõ hẽm, từ tầu biển đến ghe sông, từ mỏ quặng đến đồng ruộng, từ bán gạo đến lạc rang, nhất nhất nằm trong tay bọn chiệc cả. Lấy sức tiền ấy mà giẫy thì dân chủ hay cộng sản, ba phần tư nghị viện với nội các giao tay người Tàu. Sự ngoại giao tay trên của người Tàu đi với các điều kiện xâm nhập muốn làm mưa gió thì làm trong ta, đủ cho chính trị của ta không phải chính sách Việt nữa, uy hiếp quân sự càng lớn với nội ứng, ngoại hợp trên các chiến thuật tối tân ngày nay. Sự đồng hoá càng dễ về văn hoá, một khi nó lợi dụng được bọn thân Tàu và đồ nho. Ấy chỉ riêng một cái ám ảnh Hoa kiều, mặc dầu cuộc chiến tranh này Nhật Bản đã làm tổn hại và giảm đi chút ít, cũng đủ làm cho ta thấy sự diệt vong trước mắt, nói chi đến cả sức của chính quốc.
Huống chi Nhật, Pháp chỉ là quân địch trước mắt chớp qua và quá độ, Tàu mới là quân địch sau cùng, tức là kẻ có thể quyết định diệt vong được mình. Chúng ta phải nghiên cứu, quan sát và đề phòng kỹ lưỡng quân địch tối hậu và sự đấu tranh với họ mới hẳn quyết định cái vận mệnh của mình. Những sách lược của chúng ta phải tính tới và tập trung vào vận mệnh tối hậu, nghĩa là vào quân địch tối hậu. Chúng ta phải biết bắn vượt tầm con mắt chúng ta qua khỏi cái trứơc mắt chúng ta, như thế mới nắm được sự sống còn trong tay chúng ta. Cho nên kể đường trường ra, chúng ta mắc vào tay quân Tàu trong ba tháng thì toàn dân đói khát, cái đũa không còn mà dùng, trong sáu tháng thì ruộng bỏ hoang, đường hết ngừơi đi, đàn bà tự tử quá nửa, trẻ con chết ba phần tư, đàn ông chết hai phần ba và trong mười năm thì nòi giống hoàn toàn diệt vong. Nhưng có thể trông thấy rằng Tưởng và Uông từ năm 1944 đều xuống cả. Nước Tàu từ năm 1945 trở đi trong 20 năm nội loạn và ngoại hoạn ê chề còn đến để trừng phạt cái dã tâm muôn thuở ấy. Quân của nó sang ta mảnh giáp không còn mà về dưới sức lan tràn sùng sục của sóng đáy.
* – Trích trong bộ Chu Tri Lục 3.
* – Cương lĩnh Cách mạng Việt của XY Thái Dịch Lý Đông A
3) – Tội Ác Của Lãnh Ðạo Tàu Ðối Với Nhân Loại
Chúng tôi không lần dở lại thời kỳ cổ đại khi các vua chúa Tàu đã Hán hoá cách dã man các dân tộc lân bang như thế nào, ăn cắp những phần tinh hoa của Bách Việt ra sao ? Ðó là một chuỗi các tội ác mà trời chẳng dung, đất chẳng tha cho dòng Hán tộc. Các chuyện này mọi người đều đã biết và điều này giải thích tại sao trong chỗ thâm sâu nhất là : Tại sao Tàu cứ quyết tâm tiêu diệt Bách Việt (mà Việt Nam là hậu duệ chân truyền nhất còn sót lại) đến như thế ! Vì :
“Bách Việt còn, Hán chẳng yên
Ðồng Trụ chẳng chiết, Giao Chỉ chẳng bị diệt” là vậy
Chúng tôi chỉ trở lại thời kỳ cận đại trong lịch sử Tàu dựa vào các hành động cụ thể của đảng Cộng sản Tàu đối với lân bang liên quan đến đường lối bành trướng Hán tộc mà thôi. Ðường lối này là xuyên suốt, thống nhất trong suốt chiều dài lịch sử Hán tộc. Khi đọc qua phần trích dẫn trên, một tài liệu mà Cụ Lý Đông A đã viết từ hơn 60 năm trước, chắc hẳn thính giả Việt Nam và thính giả không phải là người Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới phải rùng mình trước dã tâm to lớn của Quốc Dân Ðảng Tàu. Nhưng Quốc Dân Ðảng Tàu so với đảng Cộng sản Tàu thì vẫn thua xa, chưa thấm vào đâu về hàng loạt tội ác chống nhân loại mà Mao Trạch Đông và những người theo Mao đã làm, chẳng phải chỉ đối với dân Tàu không thôi mà còn đối với tất cả các lân bang của Tàu, đặc biệt là Việt Nam.
Kể về tội ác chống nhân loại một cách có hệ thống, quy mô, xảo quyệt, thâm độc của Tàu cộng, thì tội ác của Hitler chống Do Thái, của Staline chống lại dân Nga và các vùng bị Nga đồng hoá chỉ là trò trẻ con. Ta hãy xem xét đôi điều cụ thể đã xảy ra :
* – Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh của Mao khi bị quân Tưởng Giới Thạch đánh bật ra khỏi vùng Trung Nguyên, mặc dù bị thiệt hại nặng nề nhưng cộng quân Tàu đã chiếm vùng Tân Cương, Nội Mông, Tây Tạng và áp đặt ra chính quyền thân Mao ở đó. Hàng triệu, hàng triệu dân ở các vùng này bị giết hại âm thầm mà chẳng ai hay, vì vào thời kỳ đó ; Phương Tây còn bận tâm vào nhiều vấn đề khác nóng bỏng hơn. Vả lại, lúc đó Phương Tây vẫn còn mâu thuẫn với nhau nghiêm trọng và chưa xuất hiện một thế lực mạnh để đứng ra làm trọng tài phân xử các việc giữa Phương Tây với nhau. Biến cố năm 1950 khi Tàu cộng xua quân chiếm Tây Tạng chỉ là một đòn cuối cùng nhằm xác định quyền uy Tàu. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và những người Tây Tạng lưu vong hơn ai hết, họ hiểu rõ những tội ác tày trời của Cộng sản Tàu đối với dân Tây Tạng. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng : “Điều thiết yếu cho con người là tình thương và trí tuệ, chứ không phải bạo lực hay tín ngưỡng”.
* – Trong chiến tranh lạnh, lợi dụng cuộc chiến với Pháp cùng với sự dốt nát và ngu xuẩn của Hồ Chí Minh và những người theo ông ta, quân Cộng sản Tàu đã giúp Hồ Chí Minh thắng Pháp tại Ðiện Biên Phủ (Tàu cộng đã làm công việc mà nhà Thanh đã làm hồi giữa thế kỷ 19, khi đại uý Francis Garnier của Pháp mang quân đến Bắc Việt, thì giặc Cờ Ðen do tướng Tàu là Lưu Vĩnh Phúc mang quân sang Việt Nam đánh Pháp và giết Francis Garnier, với lý do quân Pháp đóng quân sát biên giới Tàu, uy hiếp an ninh nước Tàu). Sau khi Việt Nam bị chia đôi theo hiệp định Geneva năm 1954 quân Tàu cộng vẫn không chịu rút về nước, mà kéo về vùng lãnh thổ Việt Nam dọc sát ngay biên giới với Tàu để làm thế ỷ dốc, đồng thời gây áp lực với Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam để buộc Cộng sản Việt Nam phải đi theo Tàu, từ đó Cộng sản Hà Nội trở thành con bài bung xung và làm tiền đồn bảo vệ cho Tàu ở phía nam.
Khi đất nước Việt Nam bị chia đôi, Hồ Chí Minh và những người Cộng sản theo ông ta vẫn ngu muội tưởng rằng “đánh Mỹ là chính nghĩa lắm“. Chỉ vì đầu óc quá thấp kém, u tối Hồ chí Minh và những người theo Hồ Chí Minh không biết phân biệt “Tối Hậu Ðịch Nhân là Tàu” và “Tương Ðối Ðịch Nhân (kẻ thù tạm thời) là Pháp hay Mỹ”, cho nên Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành công cụ tay sai đắc lực cho Cộng sản Tàu trong việc giết hại chính đồng bào mình, tiêu diệt biết bao nhiêu nhân tài của dân tộc, tàn phá đất nước đến tận cùng để phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng bá quyền của Hán tộc. Như vậy, tội ác của đảng Cộng sản Hà Nội đối với dân tộc Việt Nam phải nặng lắm chứ ! Nhưng hiện nay vì tình nghĩa đồng bào, vì việc lớn để phục hưng và phục hoạt đất nước, mà chúng ta cố gắng bỏ qua những dị biệt để nhìn chung về một hướng.
Ngoài tội ác đó với dân Việt Nam, Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông, Mãn Châu và với các sắc dân thiểu số khác trong lục địa Trung Hoa, ta còn phải kể ra đây tội ác chống nhân loại của Cộng sản Tàu với dân tộc Campuchia sau ngày 17/04/1975, khi Cộng sản Campuchia nắm quyền tại đây. Do bàn tay chỉ đạo của Bắc Kinh mà bù nhìn Pol Pot đã giết chết một cách vô cùng dã man hơn 2 triệu người dân Campuchia vô tội.
4) – Tham vọng lấn chiếm thế giới của Tàu
Thời kỳ trì hoãn chiến (hay chiến tranh gián chỉ, proxy war) giữa khối Cộng Sản và Tự Do chấm dứt khi Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử vào tháng 4 năm 1975, để thế giới bước vào giai đoạn chuyển tiếp tức là lúc Liên Xô can thiệp vào khắp nơi trên thế giới. Giai đoạn này báo hiệu sự cáo chung của Liên Xô, nhưng cũng là một dấu hiệu chỉ ra thời kỳ mà Tàu cộng chuyển qua sách lược xâm lấn các lân bang một cách có quy mô, hệ thống ở khắp nơi. Do vậy, ta cần phải xem xét các điều đã và đang xảy ra đối với các lân bang của Tàu. Năm 1978 khi Liên Xô tung nhân lực, tài lực và vật lực để can thiệp vào nhiều vùng trên thế giới nhằm gắng sức đánh sập Mỹ và Phương Tây, nhưng Liên Xô đã trúng kế Mỹ một cách thảm thương vì tài nguyên của Liên Xô có giới hạn, kinh tế của Liên Xô lại èo uột và sự hiểu biết của Liên Xô về thế giới quá nghèo nàn và một chiều, trong khi Trung cộng lại ngả hẳn sang phía Mỹ thì mọi cố gắng của Liên Xô coi như vô vọng. Do đó, sự tan rã của Liên Xô chỉ còn là vấn đề của thời gian.
Ðể thưởng công cho Trung cộng, Phương Tây và Mỹ đã giúp Bắc Kinh về kinh tế, kỹ thuật (cả Phương Tây-Mỹ và Trung cộng đều có ý đồ trong sự trợ giúp này, sẽ bàn vào một dịp khác khi thời gian cho phép) và chính trị (giúp Trung cộng có 1 chân trong Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc). Như thế, Trung cộng yên hàn với Phương Tây-Mỹ khi Liên Xô tan rã. Trung cộng không phải lo đối đầu với con gấu Bắc Cực nữa. Tàu biết là đã đến lúc họ phải cần tập trung tối đa nỗ lực nhằm khai thác tối đa, trong thời kỳ lúc quan hệ với Hoa Kỳ đang tốt đẹp để củng cố và phát triển tối đa về kinh tế, kỹ thuật đồng thời chuẩn bị các phương tiện nhằm xâm chiếm các nước lân bang một cách âm thầm thông qua đường lối mua chuộc ngoại giao, kết hợp với kinh tế, quân sự đi liền với đà di dân để đồng hoá các vùng biên giới giữa Tàu và các nước lân bang ( thí dụ rõ nét nhất về âm mưu di dân thâm hiểm này đang xảy ra tại Việt Nam. Chính quyền tay sai Việt cộng thân Tàu đã cho phép dân Tàu hay là Tàu cộng đã được huấn luyện có quyền qua biên giới Việt-Tàu để đi lại khắp vùng lãnh thổ Việt Nam mà không cần xin chiếu khán hay Visa nhập cảnh. Bắc Kinh cũng đã và đang huấn luyện, dạy tiếng Việt cho những thanh niên Tàu nghèo khổ và không thể kiếm được vợ tại Tàu và đưa họ sang sinh sống tại Việt Nam .
Chúng ta phải nhớ rằng : Hiện nay có khoảng hơn 100 triệu thanh niên Tàu không thể kiếm được vợ ngay trong nước Tàu vì nạn “Trai Thừa Gái Thiếu” do hậu qủa của chính sách “Một Con” do đảng Cộng sản Tàu đề ra. Những thanh niên tình báo này khi sang Việt Nam thì lấy gái Việt Nam và được lệnh từ Bắc Kinh để định cư tại 1 vùng chiến lược nào đó tại Việt Nam . Với tiền bạc dồi dào được cung cấp từ các nhóm tình báo Tàu trá hình làm con buôn đã nằm sẳn trong nước Việt Nam, các thanh niên này thông qua gia đình vợ Việt, họ sẽ phát triển mạng lưới kinh tế và tình báo khắp Việt Nam. Tại các vùng chiến lược tại Việt Nam, thì nhóm Tàu tình báo chiến lược này với tiền bạc và ưu thế về kinh tế, họ sẽ dần dần nắm hệ thống chính quyền địa phương. Theo thời gian, dân chúng trong những vùng chiến lược này sẽ là Tàu, Tàu lai hay những người có họ hàng thân thiết với Tàu hay có con rễ người Tàu.
Khi cần có một cuộc trưng cầu dân ý tỏ vẻ “dân chủ kiểu Tàu”, để xem dân chúng ở các vùng chiến lược này có muốn đất đai nơi họ cư ngụ thuộc về Việt Nam hay Bắc Kinh, thì đương nhiên dân chúng vùng này sẽ ngả về phía Bắc Kinh. Như vậy Việt Nam sẽ mất đất đai hay bị Tàu đồng hoá mà Tàu không cần phải đánh chiếm. Lịch sử là một cuộc tái diễn, chuyện Trọng Thuỷ, Mỵ Châu đã và đang lập lại trên đất nước Việt Nam một cách có hệ thống bởi giới cầm quyền Bắc Kinh và những tên Việt gian Cộng sản tay sai bán nước cho Tàu đang đóng vai lãnh đạo Việt Nam) để rồi từ đó lan rộng ra từng bước một, cộng thêm với sự tiếp tay của các chính quyền tay sai, bù nhìn thân Tàu tại các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Nepal thì một ngày không xa, Tàu sẽ chiếm hay chi phối toàn bộ các nước này. Khi tình hình chín mùi, bọn Tàu sẽ dùng thủ thuật dân chủ bịp bợm (qua hình thức trưng cầu dân ý), kết hợp bạo lực để hình thành các chính quyền địa phương hãy còn mang mầu sắc bản xứ, nhưng thực chất một nửa dân số các vùng ấy là Tàu hay Tàu lai và các lãnh đạo chính quyền ấy đều là Tàu trá hình, để trong vòng không đầy 50 năm nữa hay là hai thế hệ sau, các lân bang này sẽ bị tuyên bố trở thành một tỉnh của Tàu.
Theo ước tính này thì trong vòng chưa tới 50 năm nữa, tức là khoảng năm 2050 thì toàn bộ vùng Ðông Nam Á sẽ bị Hán hoá hoàn toàn. Khi Ðông Nam Á bị mất vào tay Tàu mà Phương Tây-Mỹ chẳng làm gì được thì Úc Châu, Tân Tây Lan sẽ bị đe doạ và cùng cách thức áp dụng tại các nước Ðông Nam Á. Người Tàu tại Úc, Tân Tây Lan cũng sẽ chiếm ít nhất một nửa dân số để từ đó đưa Úc và Tân Tây Lan thành những tỉnh của Tàu vào khoảng năm 2050. (chúng ta nên hiểu rằng sau tháng 4 năm 1975 khi đàn em Cộng sản Hà Nội tung quân chiếm trọn Việt Nam, thì Bắc Kinh đã có những kế sách xuất cảng người Tàu sang các nước lân bang phía Nam và Tây phương, đây là một sách lược lâu dài và vô cùng tinh vi, Bắc Kinh hiểu rằng phải khống chế Úc Châu mới đẩy Hoa Kỳ sang bên kia quần đảo Hawaii – Hạ Uy Di, tính đến nay không ai có thể biết rõ là có bao nhiêu tình báo người “Việt” nói tiếng Tàu đang nằm vùng và làm việc cho Bắc Kinh khắp nơi tại Úc Châu. Sau 30 năm đến nay người “Việt Nam” còn “vượt biên” đến Úc Châu từ Nam Dương-Indonesia, Timor. Nhưng theo tin mới nhất từ Bộ Di Trú Úc thì hầu như những người Việt Nam này thì lại không biết nói tiếng Việt Nam mà chỉ biết nói tiếng Trung Hoa, từ Vân Nam người Tàu có thể đi đường xe hoả xuống Kualalumpur sang Jakarta và “vượt biển tị nạn” sang Úc. Vì vậy Bắc Kinh mới gọi con đường sắt nối liền Vân Nam và Thái Lan là con đường chiến lược. Xin xem lại đoạn “Kiều Vụ Chính Sách – Chu Tri Lục 3 của XY Thái Dịch Lý Đông A ở đoạn trên).
Khi Úc đã mất, tất cả các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương sẽ bị Tàu xâm chiếm bằng ngả di dân (Nhập cảnh lậu hay di dân chính thức bằng cách hối lộ chính quyền địa phương tham nhũng tại các nước này) và cũng vào khoảng năm 2050, Hawaii sẽ bị Hán hoá. Với đà lấn chiếm thâm hiểm như vậy, thời điểm 2050 thì Tàu sẽ ngang nhiên trở thành thế lực chi phối toàn bộ 2/3 vùng Châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Ðộ Dương, một phần Châu Phi, riêng Úc Châu thì coi như đã bị Bắc Kinh xoá tên, vì Úc Châu đất rộng nhưng dân số lại ít, để đẩy Âu Châu và Mỹ co cụm vào thế phòng thủ trên 1/3 diện tích Thái Bình Dương và Vùng Bắc Ðại Tây Dương mà thôi. Riêng Trung-Nam Mỹ thì cũng sẽ bị Tàu khống chế. Mặc khác, thông qua các Cộng Hoà Hồi Giáo thuộc Liên Xô cũ, Tàu sẽ tràn lên hướng Tây Bắc, theo con đường buôn bán tơ lụa khi xưa để chiếm toàn vùng biển Caspian, mạn Nam Nga, Iran, Iraq, Syria … theo đúng con đường mà ngày xưa Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện trong thế kỷ thứ 13.
Theo chúng tôi ước tính chính xác là : Trước năm 2100, toàn bộ thế giới sẽ bị Tàu đô hộ, mọi quyết định về vận mạng thế giới sẽ xuất phát từ Bắc Kinh. Đây là một sự thật được lượng định rõ ràng chứ không phải ảo tưởng, mong các nhà nghiên cứu chiến lược để tâm theo dõi.
Không phải là Tàu không quan tâm đến thái độ của Hoa Kỳ hay Âu Châu nhưng Tàu đánh giá là : Mạng lưới tình báo Tàu thông qua đạo quân thứ 5 hiện đang hiện diện hơn 60 triệu người khắp thế giới và đang nắm nền kinh tế tại nhiều nước (thí dụ vùng Ðông Nam Á) thì Tàu đủ sức khuấy động, tạo sự bất ổn về tình hình chính trị, xã hội, kinh tế của Hoa Kỳ và Âu Châu. Ở một tầm nhìn chiến lược cao hơn, Tàu nghĩ rằng : Xã hội Phương Tây quá phóng túng và tự do theo chủ nghĩa cá nhân, thì xã hội này sẽ dãy chết trước làn sóng xâm thực một cách từ từ nhưng vô cùng hữu hiệu của Tàu mà Tàu không cần gây chiến tranh toàn diện. Nếu bất đắc dĩ Bắc Kinh phải tham gia vào cuộc chiến tranh đối đầu trực tiếp bằng võ lực thì Bắc Kinh sẵn sàng làm liều, giáng trả với tất cả sức mạnh nguyên tử hay chiến tranh cổ điển và bất chấp mọi qui ước, vì Bắc Kinh nghĩ là sau cuộc chiến tranh, với đất rộng, người đông Trung Hoa vẫn còn tồn tại trong khi đối phương gần như bị tận diệt dân số.
5) – Bài Học Tiêu Biểu
Ðể minh chứng cho nhận định trên, chúng tôi xin đưa ra đây một số trường hợp cụ thể tiêu biểu :
a) Khủng Bố : Câu nói để đời với những ai quen với chính trị là thế này : “Kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta”. Như vậy Tàu xác định rõ kẻ thù tối hậu của họ là Hoa Kỳ, mà Hoa Kỳ là kẻ thù của các nhóm cực đoan trong thế giới Hồi Giáo. Vậy Hồi Giáo cực đoan là bạn thân của Bắc Kinh. Vì vậy, Bắc Kinh đứng đằng sau vụ 9-11 tại Hoa Kỳ là không sai !
Chúng ta hãy xem cuốn “Unrestricted Warfare” của hai đại tá Trung cộng là Qiao Liang (Dao Lương) và Wang Xiangsui (Vương Sơn Thuỷ), viết 3 năm trước khi vụ 9-11 xảy ra ở New York thì rõ (cuốn sách Unrestricted Warfare của nhà xuất bản Pan American Publishing Company, Introduction by Ai Santoli – Al Santoli hiện là thứ trưởng quốc phnòg Hoa Kỳ). Giang Trạch Dân rất thích thú và cho thâu lại thành băng (tape) để Giang xem đi xem lại nhiều lần cảnh toà Tháp Ðôi tại New York bị khủng bố tấn công và sập đổ, (người ta đếm được là họ Giang đã xem đi xem lại tổng cộng 32 lần trong 1 ngày).
Chúng tôi cũng xin nói rõ là : Tung ra vũ khí hoá học, sinh vật học để khủng bố thế giới cũng là do bàn tay của Bắc Kinh, cho dù kẻ xử dụng vũ khí này là bọn khủng bố cực đoan Hồi giáo (Bắc Kinh chơi trò ném đá dấu tay, đưa vũ khí sinh hoá học, vi trùng học cho bọn Hồi giáo quá khích để giết Mỹ và Phương Tây). Nếu cần xử dụng bom bẩn hay vũ khí nguyên tử khi tình hình thực sự bất lợi cho Tàu thì Tàu sẵn sàng làm ngay. Mao Trạch Ðông đã từng tuyên bố : “Nếu chết 500 triệu người Trung Hoa để chiếm cả thế giới thì Trung Hoa sẵn sàng làm”.
Trung Cộng nghĩ rằng : Nếu thảm cảnh này xảy ra thì xã hội Tây Phương-Mỹ sẽ dễ bị suy sụp vì họ không có nền “kinh tế quốc dân” (kinh tế dân sinh tự túc) theo kiểu tự cung cấp để có thể tồn tại được khi tình hình cực xấu xảy ra và vì sức chịu đựng cực khổ, căng thẳng tinh thần của Mỹ và Tây Phương không được mạnh lắm nếu so với dân Tàu.
b) Bài Học Từ Các Lân Bang Của Tàu : Chiến thuật “dương đông kích tây” luôn được Tàu xử dụng. Theo nhận định này thì Ðài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên là “dương đông” để Trung cộng lấy tiền và hàng hoá, âm thầm thôn tính Miến Ðiện, Việt Nam, Lào, Campuchia, Nepal, Bhutan là “kích tây” để chiếm đất đai và tài nguyên. Kế tiếp sẽ là Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân và xa hơn nữa là Úc, Tân Tây Lan, Hawaii, Iran, Iraq, Pakistan, Ả Rập Saudi và các nước Hồi giáo thuộc Liên Xô cũ (Trung Á). Khi các vùng này thuộc về Tàu thì Ấn Ðộ phải quy hàng, Nga phải xếp giáo, Âu Châu phải quỳ gối và Hoa Kỳ phải gãy cánh. Kết quả, thế giới chỉ có Tàu và Tàu làm chủ mà thôi.
Chúng tôi muốn nêu vấn đề này lên để cảnh tỉnh thế giới không phải vì quyền lợi của đất nước Việt Nam chúng tôi không thôi, mà vì là Hiểm Hoạ Liên Hệ Ðến Toàn Cầu Ðang Tiến Tới Gần Kề Do Bắc Kinh Gây Ra. Trường hợp Việt Nam hiện nay chỉ là điển hình cho sách lược thâm hiểm này thôi.
6) – Âm mưu thôn tính Việt Nam và các nước Ðông Nam Á của Bắc Kinh
Năm 1978 khi Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ theo Liên Xô và hăm he xuất cảng cách mạng đỏ sang Ðông Nam Á, đe doạ an ninh của các đồng minh Mỹ và quyền lợi của Mỹ tại đó, thì Ðặng Tiểu Bình coi đó là hành động đe doạ an ninh của Tàu và sau đó xua quân sang đánh Việt Nam gọi là dạy cho Việt Nam 1 bài học (Ðặng bắn 1 mũi tên mà giết chết 2 con chim : Tỏ ra nhiệt tình với Mỹ, nhưng cũng là cách để diệt nhóm Tứ Nhân Bang và những người theo Giang Thanh). Khi Liên Xô sụp đổ thì đảng Cộng sản Việt Nam bị bơ vơ, thế là Tàu lôi kéo cộng sản Việt Nam quay về với Tàu với lời nói đường mật là “Mỹ luôn luôn muốn lật đổ các đồng chí đấy”. Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, v.v.v. vì đầu óc hẹp hòi và thiển cận, chỉ lo đặt quyền lợi của đảng họ mà quên quyền lợi của dân tộc, cho đến năm 1990 họ vẫn không biết được “tối hậu địch nhân, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta là Tàu chứ không phải Mỹ“. Vì vậy, sợi dây thòng lọng của Trung cộng cứ thế mà xiết cổ đảng Cộng sản Hà Nội ngày càng chặt để đến nay, sau 15 năm bị Trung cộng chi phối, toàn dân Việt Nam đã trở thành nô lệ cho Tàu, giang sơn gấm vóc Việt Nam đã bị Tàu chiếm đất, nền kinh tế èo uột của Việt Nam hiện nay đang bị Tàu chi phối toàn diện, văn hoá Việt Nam nay đang bị Hán hoá trên mọi mặt, mọi cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương đều có cán bộ tình báo người Tàu gài vào điều khiển. Như vậy, trên thực tế, Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Tàu. Nước Việt Nam đã mất vào bàn tay tham lam của Bắc Kinh. Người Tàu nay được quyền đi lại tự do trên khắp lãnh thổ Việt Nam . Số người Tàu hiện nay tại Việt Nam được ước tính là khoảng trên 3 triệu người đang có mặt thường trực và đang nhập “hộ khẩu” ào ạt vào Việt Nam để hợp thức hoá tình trạng cư trú. Trong vòng 5 năm tới, số này có thể lên đến 10 triệu người. Chợ Lớn nay đã thành một thành phố Tàu, đảo Phú Quốc chỉ trong vòng 10 năm nữa có thể trở thành một Singapore thứ hai. Tình hình này không những đang xảy ra tại Việt Nam, Lào, Campuchia mà còn đang xảy ra tại Miến Ðiện, Nepal, Bhutan, Kyrgystan, Bắc Hàn, Phi Luật Tân và các hòn đảo tại Thái Bình Dương nữa.
Song song với nỗ lực biến Phú Quốc thành một Singapore thông qua bàn tay người Tàu ở Hong Kong, Thái Lan hay Singapore, thậm chí cả từ Ðài Loan, thì nay Bắc Kinh cũng đang thực hiện một nỗ lực vô cùng quan trọng khác là : “Sẽ tìm cách chiếm lưu vực sông Hồng Hà ở Bắc Việt Nam và khu vực Biển Hồ của Campuchia”. Với đà lấn chiếm này thì chỉ trong vòng 15 năm nữa thôi Trung cộng sẽ kiểm soát 2 vùng quan trọng này ở Ðông Dương. Tại sao chúng tôi tiên đoán như vậy ? Xin thưa : Về phương diện phong thuỷ thì đảo Hải Nam của Tàu và Biển Hồ có vị trí đối xứng, vùng châu thổ sông Hồng có thể trấn áp vùng Hoa Nam của Tàu (có nguồn gốc từ dãy Hy Mã Lạp Sơn) và toàn thể nước Tàu. Vì vậy, Bắc Kinh tìm mọi cách phải chiếm Bắc Việt đầu tiên để phá thế phong thuỷ nguy hiểm cho nước Tàu, sau đó sẽ từng bước chiếm toàn thể Việt Nam và cả vùng Ðông Nam Á, theo đúng như những điều Cụ Lý Ðông A đã tiên đoán cách đây hơn 60 năm.
Một vài hòn đảo của Campuchia dành cho Tàu xử dụng, dự án làm kinh đào ở Nam Thái Lan ký kết với Tàu và một số hòn đảo của Miến Ðiện hiện đang được Tàu cho xây cất các công sự hạ tầng về kinh tế, quân sự, tiếp vận, phòng thủ, tất cả đều nằm trong ý đồ chiến lược đen tối xâm chiếm Á Châu của Bắc Kinh.
Con đường muôn thuở của sách lược Hán hoá của lãnh đạo Tàu là như thế này “kết hợp kinh tế, quân sự, ngoại giao, di dân”, để ép buộc các lân bang phải tương nhượng một vùng lãnh thổ chiến lược nào đó, rồi đưa thêm dân Tàu tới đó để biến các vùng đó thành các vùng do người Tàu thống trị, trong tường kỳ huỷ diệt văn hoá của người bản xứ, biến vùng ấy, nước ấy thành một tỉnh của Trung Hoa.
Tất cả điều đó, Trung cộng đang dốc toàn lực tiến hành trên quy mô lớn nhờ Bắc Kinh có nhiều tiền do thặng dư mậu dịch của Tàu với thế giới đang gia tăng từng ngày, đến khi thế giới nhìn thấy thì đã trễ. Tàu đang tuôn hàng hoá ồ ạt sang Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Ðiện, Nepal, Bắc Hàn, Krygystan qua đường biên giới với giá rẻ mạt nhằm huỷ diệt nền “kinh tế quốc dân” của các lân bang, đồng thời gây bất ổn trong vùng biên giới, nắm chặt các nhóm lãnh đạo thân Tàu tại các nước này, nhằm gây sức ép buộc các chính quyền thân Tàu này cắt đất, dâng biển cho Tàu và phải mở cửa biên giới để người Tàu có quyền đi lại tự do trên lãnh thổ các nước này. Ðây là sách lược “trộn lẫn một số nhỏ với khối lớn là 1 tỷ 3 người Tàu” nên chẳng bao lâu nữa, các quốc gia ấy sẽ trở thành tỉnh lỵ của Tàu là vậy.
Nếu xét về phương diện chiến lược thì : Tàu rất hãnh diện là đã kết hợp mọi cách đánh cao siêu nhất mà không phải nổ súng, không phải gây chú ý nơi dư luận quốc tế. Ta có thể gọi sách lược này của Tàu là “lấy nông thôn bao vây thành thị (Phương Tây-Mỹ) bằng kinh tế, dân số, kết hợp với quân sự, ngoại giao”.
Nhưng Bắc Kinh đã lầm lớn !
Lê Văn Xương
**
Xin đọc tiếp phần 3 post ngày mai
No comments:
Post a Comment