08 December 2017

Người Thợ Vẽ Bên Dốc Cầu Quay

Trần Bạch Thu 
       
Tháng Chạp gió lùa về se lạnh, nhất là vào những buổi tối, đèn chong lấp lóe suốt các con đường ngắn quanh chợ, người qua kẻ lại mua bán ồn ào náo nhiệt. Đèn sáng nhất là ở dãy vựa dưa hấu chất đầy trên các ụ rơm còn thơm mùi mới. Dãy tiệm chạp phô thường khi mở cửa đến quá nửa đêm trong mấy ngày cận Tết, nhưng tối nay quanh khu chợ hầu hết đều đóng cửa sớm từ chiều, còn trong nhà lồng chợ thì đèn lại thắp sáng choang, người ta sắp ghế đẩu chật cứng không còn lối đi và bên ngoài lộ thiên từng đống ngổn ngang các sạp gỗ của bạn hàng trong chợ được đem ra chất thành từng cụm.
     
Chưa tối lắm mà dân chúng đã bu quanh chợ đông nghịt. Gánh hát cải lương đang chuẩn bị che màn dựng sân khấu ở cuối dãy nhà lồng để diễn tuồng liên tiếp trong 3 ngày Tết.
     
Năm nay gánh hát không diễn ở trong đình mà lại dời về nhà lồng chợ là vì ông chủ tiệm thuốc bắc An Tế Đường đã mua bao giàn và muốn cho bà con ở xa tụ về có chỗ rộng rãi để coi cọp (coi tự do, khỏi mua vé). Đến giờ khai diễn khán giả tràn lấn, xô đẩy các hàng ghế phía sau, đứng ngồi lẫn lộn chỉ còn lại mấy chỗ ngồi danh dự ở phía trước. Hôm ấy ông Lý mặc chiếc áo bành-tô rộng thinh màu mỡ gà sáng óng. Điệu bộ trông rất nhanh nhẹn, vui tươi. Chốc chốc lại quay ra nói lớn cho đám lính kín đang đứng dang tay làm hàng rào cản bên hông nhà lồng chợ không cho khán giả tràn lấn gần sát vô sân khấu. Bất ngờ day qua bên phải ông Lý bắt gặp một cặp mắt sáng, khuôn mặt thanh tú vóc người thon gọn cân đối.
     
Trên sân khấu người ta bắt đầu giới thiệu tuồng hát và không quên cảm ơn sự tiếp đãi hào phóng của ông chủ tiệm An Tế Đường. Khán giả vỗ tay nhiệt liệt hoan nghênh nhưng ông Lý hồn đang ở tận đâu đâu… Hình như ông đang hướng về khán giả phía bên phải. Chờ đến hồi phân đoạn ngưng tuồng hát, đèn sáng lên và người phu kéo màn che kín sân khấu, ông nhanh nhẹn đi ra phía hông nhà lồng để giáp tận mặt cô gái có cặp mắt sáng như sao băng đang hồn nhiên rướn người về phía sân khấu.
     
Trước khi vãn hát, ông Lý thì thầm to nhỏ với bọn lính kín vốn là đám tay chân bộ hạ chịu nhiều ân nghĩa của ông ở chợ Tầm Vu. Kịch bản cũ rích lại bắt đầu được đem ra diễn lại. Ông Lý đóng vai người dang tay nghĩa hiệp cứu kẻ gặp nạn, bảo lãnh người cô thế. Chỉ có trời mới biết ông đã đóng vai nầy bao nhiêu lần rồi. Nhưng lần nầy lại khác…
     
Một buổi sáng sớm bình thường như mọi ngày ở chợ, ông Lý đang ngồi đọc báo bỗng có một thiếu nữ còn trẻ đẹp bồng con nhỏ đến trước cửa tiệm không nói một tiếng nào chỉ khóc uất nghẹn xin giao đứa nhỏ còn quấn tả, rồi sau đó đặt đứa bé xuống chiếc ghế bành làm bằng mây có lót gối đệm vải bông gòn cho ông. Ngỡ ngàng đến chết điếng, ông Lý không còn nói được lời nào. Người tài phú bước ra vặn hỏi cớ sự và có ý muốn đuổi đi nhưng ông đã ngăn lại, mời vô bên trong tiệm hỏi han cho rõ nguồn cơn.
     
Hồi năm ngoái, sau khi vãn hát ở chợ ra về cô gái có đôi mắt sáng như sao băng bị bọn lính kín tìm cớ xét giấy tờ tùy thân không có nên tình nghi áp giải về đồn trong đêm tối, may nhờ ông Lý tình cờ đi ngang qua thấy tội nghiệp nên bảo lãnh đem về nhà. Rồi từ cái đêm hôm ấy là cả một quãng đời cơ khổ nhục nhằn, mang tiếng “chửa hoang” nên cô phải bỏ xứ ra đi tá túc nhờ đỡ người anh họ ở trong “Xóm miểu” Kim Liên bên Chợ Cũ, Mỹ Tho để chờ ngày sinh nở. Chỉ có vậy thôi.
     
Thường khi gặp cảnh nầy thì hai bà vợ của ông Lý, một cả là người Hoa, một kế là người quán xứ bên chợ Ông Văn đều phân giải bằng cách trợ cấp cho một ít tiền rồi khuyên thiếu phụ nên bồng con về xứ. Nhưng lần nầy hai bà thấy động lòng vì thiếu phụ còn quá trẻ và nhất là đứa nhỏ lại là bé trai kháu khỉnh, mặt này sáng trưng. Còn phần ông Lý coi mòi muốn lập thêm phòng ba nên câu chuyện chưa thể kết thúc như trước. Bỗng chưng hửng giữa chừng, thiếu phụ đứng lên xin ra về và nhất quyết chỉ giao con, không nhận tiền cũng như không nói gì thêm. Dứt khoát bỏ đi không hề ngoái lại.
     
Ngoài kia gió Tết đang về, gánh hát cải lương cũng về chợ hát như mọi năm. Nắng vẫn lên cao, người đi chợ cuối năm vẫn rộn ràng tấp nập và trong dòng người ấy có một thiếu phụ đang lầm lũi bước đi bên lề đường mà nước mắt như mưa.
     
Rồi thời gian qua mau, đứa bé ngày càng lớn khôn, lanh lợi thường hay lẽo đẽo theo ông Lý giờ đã chống gậy đi quanh phố chợ ngày thường, còn khi có dịp đình đám nó luôn được ngồi cạnh bên ông. Tuổi già đã mỏn, con nhiều dòng nên ông Lý phải lo mọi việc trước ngày ra đi. Giao tiệm thuốc bắc cho vợ chồng người con trai trưởng đồng thời phân chia tài sản, đất đai cho tất cả các con, trai cũng như gái đã trưởng thành có gia đình hay chưa cũng đều được ông quyết định có phần. Riêng đứa nhỏ có giấy thế vì khai sanh là con của ông và mẹ ghi là vô danh. Thật khó cho ông. Đắn đo suy nghĩ kỹ ông quyết định viết di chúc trích phần huê lợi đất hương hỏa 20 giạ thóc cấp dưỡng cho đứa nhỏ tới năm 18 tuổi. Thường gia đình giàu có về tiền bạc thì còn có thể chia đều được, chứ đất đai thì rất khó. Nhất hậu hôn, nhì điền thổ. Khi cha mẹ qua đời, con cái khó lòng mà giải quyết êm thắm. Gia môn vô phúc đáo tụng đình là vậy.
     
Sau nhiều năm dò hỏi, ông qua tận bên Chợ Cũ, Mỹ Tho tìm tới nhà người anh họ bên vợ cũng không biết, cho đến bây giờ mẹ đứa nhỏ ở đâu. Cuối cùng, ông Lý quyết định là sau khi ông mất, người con trai trưởng có nhiệm vụ sẽ đem giao đứa bé cho người anh họ nuôi nấng cùng với giấy tờ ghi nhận phần huê lợi 20 giạ thóc hằng năm cho đến lúc trưởng thành. Phần gia bảo được giữ kín cho đến khi đứa nhỏ khôn lớn, do chính ông giao cho người anh vợ giữ dùm là con triện nỗi bằng gỗ, in chữ Tàu “An Tế Đường” để đóng dấu đỏ lên trên bao bì gói thuốc, ba toa thuốc gia truyền và một cái thúng mây lớn dùng để rây thuốc thành viên.
     
Dòng đời trôi nỗi, sau nầy đứa nhỏ không cha không mẹ sống với người Cậu lớn lên ở xóm miểu Kim Liên trong khu nhà lá mà ngay đầu hẻm có cội me già, tàn lá che phủ gần hết xóm. Ngày ngày tới trường bình thường không ai biết. Cho tới một hôm, trong lớp thầy dạy vẽ cho ra bài “tả chân” tự vẽ bất cứ cái gì ở trong nhà, người hay đồ vật cũng được. Hôm kiểm tra, thường thì học sinh vẽ giống nhau. Có em vẽ con gà, chó, mèo hay vật dụng, cũng có một ít đứa vẽ chân dung người trong gia đình. Kết quả người đứng đầu sổ điểm danh trong lớp có điểm cao nhất. Bức vẽ bằng viết chì là một cái đèn dầu để bàn rất đẹp và nổi bật hình ba chiều nhưng đặc biệt là có cái ống khói dài lại bị bể một miếng ở phía trên cùng. Thầy hỏi.
        - Sao em lại vẽ cái đèn như vậy?
        - Thưa thầy, đèn nhà em bị bể ống khói lâu rồi.
        Cả lớp cười vang. Nhất là mấy đứa lớn hay tinh nghịch. Thầy cũng cười. Nhưng từ đó một số đứa khâm phục tài vẽ của nó nên bắt đầu kết thân và lần hồi tò mò mới biết được câu chuyện đầy bi thương ở chợ Tầm Vu hồi mười mấy năm về trước.
     
Thế rồi vào một buổi sáng sớm trời còn sương đục mặt trời chưa lên. Xe cộ và người qua lại đông đúc như mắc cửi, nhất là xe gắn máy Honda Dame cánh nhựa sơn hai màu xanh trắng lướt rất đẹp và nổi bật trên đường phố. Hôm ấy ngày tựu trường, từng nhóm nhỏ học sinh áo quần tươm tất đang tụ tập dọc theo lề đường líu lo trò chuyện chờ mở cổng. Mấy đứa rất vui tươi, gương mặt rạng rỡ vì mới thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và đang hy vọng chỉ còn hai, ba năm nữa thôi là tới bậc Tú Tài, nếu đi lính sẽ là Sĩ quan hay vào các trường chuyên nghiệp là Cán sự, còn thi đậu vô trường Y khoa học sẽ trở thành Bác sĩ. Nghĩ tới đó mà lòng rộn vui quên hết mọi sự đời. Nhìn xéo qua bên kia ngã tư là trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân đang dập dìu áo dài trắng, nón lá phất phơ rồi mơ màng “Gió sân trường lồng lộng áo ai bay …” Cả bọn cùng tự hãnh mặt lên trời cười vang.
     
Bỗng từ xa trong lề đường dưới các tàng me cao có trái chín rụng lác đác. Trên con đường đất phủ đầy lá me khô xuất hiện hai vị Sư khất thực, kẻ trước người sau đang lầm lũi đi tới. Cả bọn ngạc nhiên khi nhìn thấy vị Sư đi trước còn trẻ măng và hình như là đứa bạn học cùng lớp hồi năm ngoái. Không dám vô lễ nên chỉ dõi mắt nhìn theo riết cho đến khi các vị Sư đi khuất rồi mới bàn tán. Nhìn quanh quất để tìm xem có ai giống không. Đến khi vào lớp học hỏi thăm các bạn ở khắp các ban ABC cũng không ai thấy. Mấy hôm sau, có đứa bạo dạn chay theo vị Sư đi trước.
        - Thưa thầy có phải thầy là …
        - Mô Phật.
     
Từ sau đó không thấy hai vị Sư đi ngang qua đường trước cổng trường như trước nữa. Mãi đến sau nầy trong một dịp theo Mẹ lên cúng Phật ở Tịnh xá Ngọc Tường tình cờ tôi gặp lại Sư, lúc đó mới có cơ duyên chuyện vãn nhiều hơn và biết đúng thật vị Sư đi trước là người bạn học cùng lớp có tên đứng đầu sổ điểm danh trong lớp.
     
Có một lần tôi lên Tịnh xá vãng cảnh, ăn cơm chay với một số bạn học cùng lớp. Gặp Sư cũng hỏi han cho biết vậy thôi.
        - Thầy cũng thi đậu hạng Bình Thứ mà sao lại đi tu.
        - Bần đạo thí nguyện mười phương tìm Mẹ.
     
Nghe thấy thế, mọi người xúc động dâng tràn. Đời chắc là bể khổ. Người thiếu phụ giao con ở tiệm thuốc bắc An Tế Đường năm xưa đã thí phát qui y, không liên lạc với gia đình từ đó. Chấm hết mọi sự đời. Nay tới lượt con cũng gởi thân nơi cửa Phật. Thật ngậm ngùi.
    
Trong thời gian khất thực đi khắp mọi nơi, Sư có thời kỳ được nhập môn với Thượng Tọa Thích Tâm Giác và học được nghề châm cứu tới nơi tới chốn. Sau đó thường đi khắp các Tịnh xá mở chẩn chữa bệnh cho nhiều người với lời nguyện với Thầy khi nhập môn là nếu được tinh tấn đạt thành sở nguyện thì sẽ phát tâm hành hiệp không nhận thù lao. Cứ thế mà vui cùng đạo pháp giúp đời.
      
Năm năm sau cơ trời dung ruổi, Sư tìm được Mẹ đang trụ trì ở chùa Sư Cô tận ngoài Vũng Tàu. Kể từ sau đó Sư lại cởi bỏ áo cà sa trở về đời thường với danh xưng là Đạo Hiệp chuyên châm cứu và bán thuốc cao đơn hoàn tán trong vùng Mỹ Tho – Long An.
      
Đạo Hiệp cất một gian nhà lá trong hẻm xóm “Cây Dái Ngựa” gần khu chợ Vòng Nhỏ, Mỹ Tho. Ông Đạo qui tụ dân lao động trong xóm tới nhà lãnh bao bì về nhà dán và cho thuốc tán hoặc thuốc viên vô hộp giấy, được tính công theo số lượng giao nộp hằng ngày. Cả xóm già trẻ bé lớn thinh không được trời ban cho công ăn việc làm tại nhà rất dễ dàng. Thuốc của Đạo Hiệp lại nỗi tiếng khắp trong vùng là thuốc trị ban nóng hiệu “Lão Hòa Thượng” có đóng dấu “An Tế Đường” bản gốc đàng hoàng và hai loại thuốc khác là thuốc tiêu và thuốc tán rơ miệng trị đẹn sữa, hoặc lác đồng tiền cho trẻ nhỏ. Thuốc chế tại nhà thuộc loại thủ công gia truyền rất thông dụng.
      
Ngoài ra, Đạo Hiệp lại còn có tài châm cứu trị bệnh không lấy tiền. Tiếng lành đồn xa. Một hôm bà vợ của ông Trưởng Ty Cảnh Sát nửa đêm bị phong trúng gió méo miệng cho người tới rước Đạo Hiệp về châm cứu. Hết bệnh bà muốn trả ơn, nhưng ông Đạo mới ngoài hai mươi tuổi, không nhận gì hết trừ hương hoa cúng Phật. Nài nỉ mãi Đạo Hiệp mới chịu nhận lời đề nghị cất một kiosque bên dốc cầu Quây cho dân chúng dễ dàng tìm thấy chỗ để rước về châm cứu lúc nữa đêm nửa hôm. Mọi người buôn bán ở phố cũng như Cảnh sát đều biết rõ lai lịch của căn kiosque mới nầy. Khi mọi việc tương đối ổn định Đạo Hiệp không quảng cáo gì về thuốc gia truyền hay châm cứu ở kiosque mà lại cho trương bảng hiệu là Phòng vẽ “Anh Tuấn” ghép tên thật của mình và tên đứa em bà con. Điều đặc biệt là phòng vẽ chỉ chuyên họa hình thờ, không vẽ hay họa bất cứ thứ hình nào khác.
      
Lâu dần phòng vẽ biến thành tiệm họa hình thờ chuyên nghiệp. Ở quê người ta mang ra những tấm hình bị hoen ố do tai nạn thấm nước hay bảo quản không kỹ của người thân mất đã lâu hoặc không có hình lưu lại. Dù có hình hay không chỉ cần cho biết mất năm nào bao nhiêu tuổi, nam hay nữ và nhớ dẫn theo người thân nào có gương mặt giống nhất ra tiệm “Anh Tuấn” là sẽ họa được hết. Có đủ loại mẫu hao hao giống ông Hội đồng đang mặc áo dài khăn đống ngồi trên ghế đai hay sĩ quan, binh lính chết trận chỉ cần gắn chân dung lên là thành vị tướng rất oai nghiêm. Thiên hạ đồn rằng Đạo Hiệp có tâm nên họa hình rất có thần và đem về nhà thờ rất linh do đó tiệm họa hình ngày càng đông khách, thường khi chờ cả tháng trời hình mới họa xong.
      
Cả tỉnh đều biết ông Đạo Hiệp trẻ tuồi tài cao hành hiệp cứu nhân độ thế nhưng cũng có người thắc mắc vì sau nầy tuy mang danh xưng là ông Đạo nhưng lại ăn mặc thường phục và để tóc dài như một thanh niên đời thường. Thỉnh thoảng gặp bạn thân hay đi dự đám giỗ cũng ăn mặn uống rượu mạnh hay bia “33” như các thực khách khác không kiêng cữ gì cả hay ít nhất cũng chay lạt như các cư sĩ tại gia. Nhất là còn trong độ tuổi thanh niên về tình trạng quân dịch ra sao?
      
Sau nầy mới biết Đạo Hiệp có giấy tờ hoãn dịch vì lý do tôn giáo thuộc danh sách ở chùa Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn. Mỗi năm lên chùa làm giấy tờ gia hạn một lần và được chùa cấp giấy chứng nhận là “Sứ Giả Như Lai” đi công tác Phật sự ở các địa phương. Có nghĩa là được sinh hoạt ngoài đời bình thường ít nhất là trên giấy tờ hợp pháp. Hơn nữa, với các hoạt động thực tế giúp đời vô vị lợi, đôi khi miễn phí hoàn toàn nên được mọi người thông cảm Ông Đạo còn trẻ nên châm chước trong đời sống hằng ngày. Đạo tại tâm mới đáng trân trọng và quí mến.
      
Đa tài có khi lại đa mang. Đạo Hiệp còn biết thổi sáo mà lại thổi rất hay. Có những đêm trăng sáng từ kiosque ở phố bờ sông đường Trưng Trắc khi nước sông dâng đầy, gió thổi lan xa hòa lẫn với tiếng tiêu sầu của Đạo Hiệp nữa thì dù cho có Mỵ Nương tái thế cũng phải xiêu lòng.
      
Quả thật có người con gái trẻ đẹp quê ở xã Mỹ Phong ra tiệm họa hình “Anh Tuấn” để họa hình thờ, thỉnh thoảng có tới chơi ở nhà của người bà con gần kiosque của Đạo Hiệp đem lòng yêu mến thầm.
      
Đào hoa cũng có số. Hồi mới mở tiệm họa hình được một vài tháng có một cô gái quê nhà nghèo ở Gò Công ra chợ xin làm mướn, thấy tiệm họa hình đắt khách nên thử dò hỏi muốn làm người giúp việc. Túc nghiệp là đây. Đạo Hiệp cưu mang đem về căn nhà lá ở hẻm “Cây Dái Ngựa” nhờ giúp việc nhà và phụ trông coi việc mua bán thuốc gia truyền. Được một thời gian cô gái mang bầu và để tránh tiếng cho Đạo Hiệp, cô gái bỏ về xứ mang theo giọt máu rơi của Đạo Hiệp.
      
Bẵng đi sau gần mười năm dài cách biệt những người xa xứ trở lại Mỹ Tho, ghé thăm, mới hay không biết lúc nào và quan hệ ra sao mà Đạo Hiệp nay đã có 5 con với người đẹp năm xưa ở Mỹ Phong. Khi toàn bộ khu phố nằm ven bờ sông Trưng Trắc bị giải tỏa làm khu đi bộ hóng mát thì Phòng vẽ “Anh Tuấn” lại dời về bên dốc cầu Bạch Nha đối diện gần khu bến xe đò cũ. Cũng lại chỉ họa hình thờ không còn làm thuốc gia truyền đề bán và cũng không còn hành nghề châm cứu nữa. Đạo Hiệp đang trong hồi túng quẫn. Người sống còn không lo nổi thì làm sao có hơi sức mà lo cho người chết. Tiệm họa hình ế ẩm. Thuốc gia truyền bị cấm mua bán. Châm cứu không được phép đăng ký. Cả gia đình sống chen chúc trong căn nhà sàn nhỏ hẹp, chật cứng vừa làm phòng vẽ vừa sinh hoạt. Cùng đường, Đạo Hiệp bắt đầu gia nhập tổ chức vượt biên, vượt biển chuyên đi móc nối khách. Tù tội nhiều phen nhưng cũng không đi lọt.
      
Cuối cùng, may mắn có người quen ân nghĩa nhờ châm cứu chữa bệnh thời trước nay định cư ở nước ngoài về nước thăm và cám cảnh trước khó khăn của gia đình nên đã giúp vốn cho Đạo Hiệp sang tiệm vẽ, dời gia đình về bến xe mới thuộc xã Đạo Thạnh mở quán ăn ven quốc lộ để lập nghiệp. Mấy đứa con lớn không học hành chữ nghĩa gì cả, ra đời sớm làm lụng nghề chân tay hay rửa xe sống qua ngày.
      
Được một thời gian không cạnh tranh nổi với các quán ăn, nhà hàng thời đại mới có nữ tiếp viên xinh đẹp nên Đạo Hiệp sang tiệm, lui về quê vợ xã Mỹ Phong làm rẫy trồng rau sinh sống.
      
Gần hơn nửa đời người, Đạo Hiệp cũng dang tay hành hiệp cứu đời và thương người khốn khổ. Cuối cùng rồi cũng sa vào vòng tục lụy, nghiệp đời luẩn quẩn. Lúc sau nầy thường hay nhắc đến gia đình ông thợ mộc mù ở xứ đạo Cồn Bà, Gò Công có người con gái năm xưa tên Nhạn và đứa con nhỏ bây giờ thất lạc không biết ra sao? Nhớ đến câu chuyện kể ở chợ Tầm Vu hồi mấy chục năm về trước. Thăng trầm thế sự cũng nhiều, Đạo Hiệp quyết định rủ áo đi tu trở lại.
      
Hôm làm lễ xuất gia khất thực dưới sự chứng kiến của một ít người thân. Đạo Hiệp xuống tóc và rơi nước mắt khi tận tay đốt ba toa thuốc gia truyền và con triện in mộc đỏ hiệu “An Tế Đường.” Sư Thầy thấy thế bèn buột miệng:
        - Họa Phúc khôn lường. Dứt nghiệp từ đây.
      
Đạo Hiệp chậm rãi từ từ đi sâu vào trong hậu liêu rồi khuất dạng.
      
Trần Bạch Thu    

No comments:

Post a Comment