18 August 2013

Điểm thơ



tôn thất tuệ
Sầu Ai Lao
Đỗ Hữu

Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây cứ sầu tuôn núi võ vàng
Lá vẫn phai chàm trên sắc áo
Mưa nguồn thác đổ đá mù sương.

Giữa ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với nắng bâng khuâng mây thuở nào
Với núi xanh lơ chiều tím nhạt
Mây trời bàng bạc sầu Ai Lao.

Lưng đèo quán gió mờ hun hút
Thôn bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người ơi, thương nhớ biết bao nhiêu!

Ở đây hơi đá chiều vây khắp
Khép chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng hôn hoa bản phấn rưng rưng.

Người có theo tôi lên dốc nắng
Nhìn xem hoa rải sắc trên đường
Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá đổ sau chân một lối vàng.---

Trà Đỗ Hữu, no1i về trước 75, thì ai cũng biết là danh tiếng vùng Lâm Đồng Bảo Lộc. Xe đò luôn ghé vào tiệm Đỗ Hữu cho khách nghỉ ngơi và mua trà như ai đi Huế cũng mua mè xửng. Nhưng thi sĩ Đỗ Hữu thì không biết ông là ai, thi phẩm của ông cũng không ai biết. Tôi gặp bài thơ nầy trên tạp chí Tân Văn, chủ nhiệm là Hoàng Dược Thảo.

Trong tập số 8 tháng 3-2008 Trần Trung Thuần tóm lược một bài báo của người khác trên internet với hai bài thơ duy nhất của Đỗ Hữu mà chính ông cũng không biết gì về thi sĩ nầy. Huỳnh Ngọc Chiến tìm gặp chúng trong một cuốn sách giáo khoa của Bùi Giáng soạn cho học sinh thi tú tài thời VNCH. Vài Nhận Xét Về Bà Huyện Thanh Quan (nxb Tân Việt Saigon 1957). Cả hai ông Chiến và Thuần đều không nói Bùi Giáng có biết gì về Đỗ Hữu hay không.

Họ đồng ý với nhau là khen Bùi Giáng có tâm hồn khoáng đạt, không “văn mình”, trái lại lòng yêu thơ đã làm cho Bùi Giáng trân quí những bài thơ hay của bất cứ ai, thời nào, chỗ nào. Rất tiếc ông Chiến không cho biết nhận xét của Bùi Giáng, hay nói về quan niệm thi ca của Bùi Giáng thế nào khi đưa hai bài của Đỗ Hữu làm minh chứng. Đây bài thứ hai của cùng tác giả.
Chiều Việt Bắc
Đỗ Hữu

Nắng xuống phương nào người thấy không?
Mà đây chiều tím rụng song song
Vàng tuôn mấy lối ngày thu quạnh
Ai liệm hoàng hôn kín mắt trong?

Khói thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phương xa chiều xuống ngút sông dài
Đường kia có phải sầu xưa đọng?
Trở bước hoa lau trắng ngập đồi.

Con đường đất đỏ mờ sau bản
Thung lũng vàng tơ nắng trở chiều
Núi biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm về lá đổ phận tàn xiêu…

Rừng núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy ngày lạc bước ai ngồi than
Buồn xưa chiều đọng sầu lau lách
Chòi cũ nằm nghe gió dặm trường…
Nếu ông Chiến chỉ biết hai bài thơ nầy qua tay người khác chứ không trích từ cuốn sách giáo khoa nói trên, rất có thể Bùi Giáng còn ghi thêm ít nhiều chi tiết. Nếu có cơ duyên tìm gặp cuốn sách  xin để ý trường hợp nầy.  Hai tác giả nầy cho rằng BG phải mất nhiều năm soạn thảo và ấn loát, và dự đoán mất ba năm. Sách xuất bản 1959 cho phép họ nói rằng Đỗ Hữu đã sáng tác trong khoảng thời gian ở bên Lào trong chiến dịch Tây Tiến như Quang Dũng cũng đi trong dịp nầy.

Nói như vậy vẫn còn khó hiểu vì Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội Pháp. Đoàn quân gồm phần đông là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa Sầm Nứa, trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Quang Dũng làm bài Tây Tiến năm 1948.

Tôi thật dốt chỗ nầy. Chỉ biết ông hoàng Souphanouvong qua Hà Nội nhận lệnh HCM thành lập Pathet Lao năm 1951; sau đó quân BV và Pathet chiếm miền trung Lào; hậu quả là nội chiến cho đến 1955, khi Pathet Lào chịu nhận hai tỉnh phía bắc. Như vậy quân BV có mặt trên đất Lào cho đến thời điểm nầy, cũng là lúc mà ông Chiến ức đoán Bùi Giáng đã có hai bài thơ của Đỗ Hữu trong tay. Nói khác hai bài nầy được sáng tác trong khoảng từ 1947 đến 1955. Quang Dũng bị đuổi khỏi hàng ngũ năm 1953 vì làm thơ lãng mạn. Nói cho cùng là làm thơ ngoài đường lối chỉ đạo của CS. Rất có thể Đỗ Hữu cũng đã bị dập vùi, bỏ của lấy người; bạn hữu không ai dám chép, đọc thơ của ông.

Nhưng để cho tận cùng kỳ lý, đã không biết tác giả là ai, bài viết lúc nào, mà thơ chỉ có chữ Ai Lao ngoài ra không có gì liên quan hành quân nầy, chiến dịch nọ như trong bài Tây Tiến, thì làm sao nói tác giả trong đoàn quân viễn chinh của BV. Không ai cấm một người ngoài quân đội thấy thu về nơi thôn bản mà có cái sầu Ai Lao. Không ai cấm một ghi nhận núi biếc chập chùng vây ải lạnh ở Việt Bắc và thấy lá đổ sau chân một lối vàng trên đất Lào. Hai chữ Việt Bắc, không biết xuất xứ từ đâu, mang đầy tính chất kháng chiến, nhưng chưa đủ lý 100% để nói Đỗ Hữu nằm trong chiến dịch Tây Tiến của BV. Thế nhưng thôi, hãy nói là kháng chiến, viễn chinh bằng những chi tiết như khép chặt mình tôi giữa núi rừng hoặc phương xa chiều xuống ngút sông dài.

Trần Trung Thuần và Huỳnh Ngọc Chiến tin tưởng có sự giao cảm nghệ thuật giữa Đỗ Hữu và Quang Dũng nhất là trong bài Tây Tiến. Cảm quan nghệ thuật hoàn toàn chủ quan. Ông Thuần nhận xét thơ của Đỗ Hữu hay hơn của Quang Dũng.

Phần tôi, tôi chỉ thấy những nét hay riêng mà không so sánh vì mọi sự chọn lựa đều độc đoán buộc phải hy sinh điều không được chọn.

Tây Tiến cho thấy tác giả Quang Dũng lão luyện, ngôn ngữ chắc nịch, như những nhát kiếm đủ sức hàng phục đối phương. Điều độ nhưng quyết liệt như phim võ hiệp Nhật, chứ không vung vít dư thừa như phim công phu của Tàu.
Giá trị của Tây Tiến nằm trong nét hào hùng, không phải của đoàn quân, mà của sức mạnh ý chí nhận thức ở chiều thứ tư (4th dimension), có tính chất nhân chứng (témoignage, witnessing)
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Không gian của Quang Dũng chen chúc những người là người, làm thành bức tranh linh hoạt; không gian không giới hạn trong rừng núi, đem người đọc từ những nấm mồ rải rác nơi biên cương đến Hà Nội có bóng dáng nồng thơm, từ rừng sâu đến một kinh đô khác là Viên Chăn. Không gian đó cũng là không gian nội tâm. Sông Mã gầm lên khúc độc hành, như sư tử hống, vạn loại muông thú cùng cây cỏ ngưng thở mà nghe. Khúc độc hành nầy, có sức mạnh của dòng nước và chính là sức mạnh ấy.
Trong lúc ấy, Đỗ Hữu như đóng vai một làn gió của chất sầu, của mélancholie, như khói thuốc hòa với sương núi, như một người cô đơn nằm trong chòi tranh cũ, nhìn ra dặm về lá đổ phận tàn xiêu.
Đỗ Hữu coi bộ không thiết tha với ngôn ngữ đẽo gọt. Có cảm tưởng Đỗ Hữu đã vượt qua sự kiện ông biết mình làm thơ. Xin đừng khinh những câu mộc mạc như: Buồn quá ngày đi đêm trở lại, hay Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm. Hai câu ấy như hai hỏa tiển phóng hai vệ tinh vào không gian.
Buồn quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng hôn hoa bản phấn rưng rưng

Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá đổ sau chân một lối vàng.---
Xin để các thân hữu tự nhiên thưởng thức mấy bài thơ.
tôn thất tuệ


Phụ bản:
Tây Tiến
Quang Dũng 1948
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi
Nhớ ai Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt rừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.----
(Chép theo Tân Văn)

No comments:

Post a Comment

Trăng Không Già..., thơ