Thân mang ngọc báu nào hay,
Khắp nơi khổ sở loay hoay kiếm tìm.
飮 月
雲 逃 玉 兔 展 姸 容,
一 隻 漁 舟 水 上 衝.
老 鶩 悾 悾 尋 暮 鼓,
殘 燈 苦 苦 望 晨 鐘.
庭 前 樹 折 人 亡 蔭,
火 裏 冰 消 佛 隱 蹤.
酌 酒 盲 翁 三 盞 喫,
不 知 飮 月 自 杯 中.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Ẩm Nguyệt
Vân đào, ngọc thố triển nghiên dung,
Nhất chích ngư châu thủy thượng xung.
Lão vụ không không tầm mộ cổ,
Tàn đăng khổ khổ vọng thần chung.
Đình tiền thụ chiết, nhân vong ấm,
Hỏa lý băng tiêu, Phật ẩn tung.
Chước tửu, manh ông tam trản khiết,
Bất tri ẩm nguyệt tự bôi trung.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:
Uống Trăng
Mây chạy trốn, con thỏ ngọc (trăng) bày ra khuôn mặt đẹp đẽ,
Một chiếc thuyền câu xông pha trên nước.
Con vịt trời già ngu ngơ tìm (tiếng) trống chiều,
Ngọn đèn tàn buồn bã trông đợi (tiếng) chuông sớm.
Cái cây trước sân (bị) đổ, người mất bóng mát, (1)
Cục nước đá trong (lò) lửa (bị) tan, Phật ẩn giấu tung tích. (2)
Rót rượu, ông lão mù uống (luôn) ba chén, (3)
Chẳng biết rằng (mình) đang uống trăng từ trong chén.
Chú thích:
(1) Vô Môn Quan, tắc 37: Đình Tiền Bách Thụ
Cử:
Một ông tăng hỏi Thiền Sư Triệu Châu:
- Ý Tổ sư từ Tây sang là gì? (Hán văn: Như hà thị Tổ sư Tây lai ý)
Triệu Châu đáp:
- Cây bách trước sân. (Hán văn: Đình tiền bách thụ tử)
Lời Bình của Vô Môn Huệ Khai:
Nếu thấy rõ được chỗ trả lời của Triệu Châu thì trước không có Thích Ca, sau không có Di Lặc.
Bài Tụng của Vô Môn Huệ Khai:
Ngôn vô triển sự,
Ngữ bất đầu cơ.
Thừa ngôn giả táng,
Trệ cú giả mê.
Trần Tuấn Mẫn dịch:
Lời không tả chuyện,
Tiếng chẳng hợp duyên.
Đeo lời mất mạng,
Vướng câu tối lòng.
(2) Pháp Bảo Chư Tổ, Thượng Tọa Thích Minh Nhật biên soạn (http://www.thuongson.net/phapbaochuto.htm):
Bài tụng của Trường Khánh Huệ Lăng:
Vạn tượng chi trung độc lộ thân
Duy nhân tự khẳng nãi vi thân
Tích thời mậu hướng đồ trung mịch
Kim nhật khán như hỏa lý băng
Bài dịch của TT Minh Nhật:
Chính nơi tâm thức bày một thân
Chỉ người tự nhận mới là gần
Lúc xưa lầm hướng ngoài đường kiếm
Giống tợ băng trong lửa cháy rần.
Lời Luận của TT Minh Nhật:
Muốn an lành hãy quay về tâm thức và thật lắng lòng. Muốn lắng lòng thì đừng hướng ngoại tìm kiếm sự an lành. Hướng ngoại tìm an lành nếu có, sẽ mất nhanh ngay, giống như nước đá đưa vào lửa sẽ tan biến mất.
(3) Vô Môn Quan, tắc 10: Thanh Thoát Cô Bần
Cử:
Ông tăng thưa với Hòa thượng Tào Sơn:
- Thanh Thoát nghèo đói, xin Sư giúp đỡ.
Tào Sơn gọi:
- Thầy Thoát!
Tăng đáp:
- Dạ.
Tào Sơn bảo:
- Rượu nhà họ Bạch ở Thanh Nguyên, uống xong ba chén mà sao còn bảo chưa dính môi ?
Lời Bình của Vô Môn Huệ Khai:
Thanh Thoát trình cơ như vậy, tâm ý là sao? Tào Sơn sáng mắt, biết ngay thâm ý. Tuy nhiên như vậy, đâu là chỗ thầy Thoát uống rượu?
Phỏng dịch thơ:
Uống Trăng
Trăng thu rờ rỡ tống mây bay,
Một bóng thuyền câu nhỏ quắt quay.
Vịt nhớ trống chiều, day dứt kiếm,
Đèn mong chuông sớm, nghẹn ngào lay.
Trước sân cây đổ, tâm không hiện,
Trong lửa tuyết tan, Phật chẳng bày.
Ông lão mù luôn tay cạn chén,
Vô tình nuốt vẹn mảnh trăng say.
Trần Văn Lương
Cali, 5/2017
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
Đừng trách ông lão mù uống trăng mà không biết. Hầu hết chúng sanh nào có khác gì! Ai cũng mang châu báu vô giá trong mình mà không biết để phải chịu cơ khổ rách rưới. (*)
Hỡi ơi! Bính Đinh đồng tử đến xin lửa! (**)
Ghi chú:
(*) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (gọi tắt là Pháp Hoa), quyển 4, phẩm thứ 8: Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký
(Bản dịch của Tỳ kheo Thích Trí Tịnh):
8. Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán ở trước Phật được thọ ký xong, vui mừng hớn hở liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật ăn năn lỗi của mình mà tự trách : Thế-Tôn ! Chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như người vô trí. Vì sao? Chúng con đáng được trí huệ của Như-Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
Thế-Tôn! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say, cho nó rồi đi. Gã đó say mèm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.
Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng : "Lạ thay! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thụ năm món dục, ở ngày tháng năm dó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thực là khờ lắm; nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thì thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn.
(**) Bích Nham Lục, tắc 7: Huệ Siêu Vấn Phật
Trích lời Bình của Viên Ngộ Khắc Cần:
(Bản dịch của Thiền Sư Thích Mãn Giác)
...
Cũng như ông tăng giám viện Tắc tuy ở trong chúng hội của Pháp Nhãn song chưa từng xin nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn hỏi ông ta, "Tại sao viện chủ không nhập thất?" Tắc đáp, "Hòa thượng không biết là hồi ở với Thanh Lâm đệ tử có chứng được đôi chút sao?" Pháp Nhãn nói, "Ông thử kể lại cho tôi nghe xem." Tắc nói, "Đệ tử hỏi Phật là gì?" Thanh Lâm nói "Bính Đinh đồng tử đến xin lửa." Pháp Nhãn nói , "Lời hay lắm song tôi e rằng ông hiểu lầm. Thử nói gì nữa xem sao." Tắc nói, " Bính Đinh là lửa, lấy lửa mà đi tìm lửa. Cũng như đệ tử đã là Phật rồi lại còn đi tìm Phật". Pháp Nhãn nói, "Quả nhiên là giám viện hiểu lầm rồi." Tắc không vui mới thu dọn hành trang bỏ qua sông. Pháp Nhãn nói: "Người này nếu trở lại thì còn cứu được, nếu không trở lại thì không cứu được nữa." Đến giữa đường Tắc tự suy gẫm: "người này là bậc thiện tri thức của năm trăm người, chẳng lẽ ông ta lại lừa mình sao?" Bèn trở lại, vào tham kiến Pháp Nhãn. Pháp Nhãn nói, "Ông cứ hỏi đi, tôi sẽ trả lời cho." Tắc hỏi, "Phật là gì?" Pháp Nhãn nói, "Bính Đinh đồng tử đến xin lửa." Nghe lời ấy Tắc bèn đại ngộ.
No comments:
Post a Comment