17 December 2015

Kiếp Sau và Kinh Nghiệm Chết Hụt

Bác sĩ Hồ văn Hiền

….[W]ho would fardels bear,
    To grunt and sweat under a weary life,
    But that the dread of something after death,
    The undiscovered country, from whose bourn
    No traveller returns, puzzles the will,
    And makes us rather bear those ills we have,
    Than fly to others that we know not of…”
    
    (...Có mấy ai cam chịu mang gánh nặng,
    Rên rĩ đổ mồ hôi trong cuộc sống nhọc nhằn
    Chẳng qua chúng ta sợ cái gì đó sau khi chết,
    Vùng đất chưa khám phá, biên cương chốn ấy
    Chưa khách lữ hành nào trở về, làm ý chí ta rối ren,
    Và làm ta thà gánh những đau khổ đang mang
    Hơn là tìm đến những nổi khổ ta không biết...)


                                                        Shakespeare

Phần đông chúng ta  mường tượng tin rằng sau khi con người chết, một phần nào đó vẫn còn tồn tại: "Chết là thế phách, còn là tinh anh" (Kiều). Theo văn hoá dân gian Á Đông, người chết sẽ qua Thập điện Diêm Vương là 10 ông vua cai quản cỏi âm, ở đó có gương Nghiệt Kính Đài là kính soi lại tất cả hành vi của người chết lúc còn trên dương thế. Các linh hồn có tội nặng bị trừng phạt nặng nề (như mổ bụng, moi tim, nung vạc dầu..), đi qua cầu vồng trơn trợt và rơi xuống cho thuồng luồng cá sấu ăn thịt cũng như chó ngao hai bên cầu cắn xé. Còn những linh hồn được đi đầu thai kiếp tới phải qua Vong Đài (Đài quên), uống Canh Quên lãng của Mạnh Bà để quên hết kiếp trước.

Cho nên dù  nói theo Shakespeare là "chưa khách lữ hành nào về" từ cỏi chết, hoặc nói theo văn hoá chúng ta là phải uống thuốc lú mới được trở về đầu thai kiếp khác, quá khứ chỉ còn ghi chép trên tảng đá Tam Sinh Thạch bên dòng sông quên (Vong Xuyên) (1). Không mấy ai còn biết trong "giấc ngủ của cái chết ấy, không biết giấc mơ nào đến lúc  chúng ta lột bỏ tấm thân xác vô thường này "
...For in that sleep of death, what dreams may come,
When we have shuffled off this mortal coil?
Người Việt Nam chúng ta cũng thường được nghe nói đến hiện tượng những người gia đình tưởng đã chết sau một thời gian sống lại. Phong tục người Việt chúng ta cũng giữ xác chết một thời gian trước khi tẩm liệm để tránh đừng chôn một người chưa chết hẳn, tuy không còn phát hiện nhịp tim hoặc hơi thở và trên quan sát thông thường được coi như đã chết

Kinh nghiệm chết hụt


Kinh nghiệm chết hụt  là kinh nghiệm của một số người lúc họ tỉnh lại sau một thời gian được ghi nhận như là đã chết. Với những kỹ thuật tân kỳ hiện nay của khoa hồi sức, một số đáng kể bệnh nhân vì bệnh nặng hoặc vì thương tích trầm trọng đáng lẽ đã chết luôn sau đó được cứu sống lại, nghĩa là có một khoảng thời gian nào đó tim họ đã ngừng đập, phổi ngưng thở, và đôi khi não điện đồ (EEG) không còn đo được nữa, và đứng trên phương diện lâm sàng, họ được bác sĩ xem như đã chết.

Một số người trong nhóm này thuật lại cuộc hành trình của họ và nếu đem so sánh tường thuật của nhiều người khác nhau, chúng ta thấy có những điểm tương đồng được lập đi lập lại từ người này qua người khác.

Tuy hiện tượng  những người trở về từ cõi chết đã được nghiên cứu trước đây và được nhắc tới ngay từ thời trung cổ, hiện tượng này chỉ được nghiên cứu nhiều và coi như một đề tài y khoa sau khi bác sĩ Raymond Moody công bố kết quả nghiên cứu của ông và đặt cho hiện tượng này cái tên "Near death experience" viết tắt là NDE, tạm dịch là "Kinh nghiệm chết hụt “(2).       

Năm 1982 viện Gallup chuyên về thăm dò dư luận khám phá rằng có khoảng tám triệu người Mỹ từng có trải qua kinh nghiệm chết hụt loại này, có nghĩa là cứ hai chục người thì đã có một người đã từng trải qua.

Gần đây hơn, lại thêm một trường hợp NDE nổi tiếng và gây nhiều tranh luận. Eben Alexander , một bác sĩ giải phẫu thần kinh , đột nhiên bị mắc một chứng  viêm màng não cực hiếm  tấn công hệ thần kinh của ông , làm cho phần não bộ kiểm soát tư duy và cảm xúc bị ngưng hoạt động hoàn toàn. Lúc mà bác sĩ điều trị đi đến quyết định ngưng mọi chữa trị, bịnh nhân mở mắt tỉnh giậy. Sau đó ông nhớ  lại cuộc du hành vào "The Core" (trung tâm ) của vũ trụ tựa như trở về trong bụng Mẹ, bên cạnh cái nhau nuôi dưỡng mình (“a fetus floats in the womb with the silent partner of a placenta”, p.47) và được một thiên thần hướng dẫn đến gặp "The Creator" , “God”, The Source, “Om” (Tạo hoá, Chúa, Nguồn; "Om " là âm thanh tác giả nghe văng vẳng liên hệ với hình ảnh của Chúa), nơi tối như mực nhưng lại đầy ánh sáng. "Om" cho tác giả biết là không phải có một mà có nhiều thế giới, ở trung tâm các thế giới khác nhau này là Love ("Tình thương"), và Evil (Ác) hiện diện trong mỗi thế giới nhưng cần thiết vì không có Ác thì không có chọn lựa tự do (""free will") .  Cõi trần gian (terrestrial realm) chúng ta sống gắn bó chặt chẻ với vô số vũ trụ, chiều kích cao hơn (higher dimensions), tiến hoá xa hơn thế giới chúng ta và từ những thế giới này,có thể tiếp cận thế giới chúng ta bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu; tuy nhiên người trần chúng ta thì không biết và không hiểu họ được.

Ông  viết cuốn sách best seller "Proof of Heaven, A Neurosurgeon's Journey into the Afterlife" (“Bằng chứng về Thiên đàng, hành trình của một bác sĩ giải phẫu thần kinh vào cõi sau cuộc đời” ).

 Kinh nghiệm chết hụt trong nhi khoa

Trong nhi khoa người ta cũng để ý tới hiện tượng này. Bác sĩ Melvin Morse ở Ðại Học Y khoa Washington nghiên cứu trường hợp của 11 trẻ em từ 3 đến 16 tuổi đã từng bị chết hụt, các trẻ này hoặc đã bị đứng tim (cardiac arrest) hoặc hôn mê (coma) kéo dài và sau đó tỉnh lại được nhờ các phương tiện hồi sức tân tiến. Sáu em kể lại kinh nghiệm hồn rời khỏi xác, năm em nhớ lại được đi vào một vùng tối tăm, bốn em nhớ lại một đường hầm và ba em kể lại mình được quyết định trở về trần thế, nghĩa là nhập lại vào xác.

Những điểm chung kể lại.

Nói chung kinh nghiệm chết hụt thường gồm những điểm sau đây, tuy nhiên ta nên nhớ rằng trong mọi trường hợp cá biệt chỉ một số yếu tố hiện diện mà thôi.

    Cảm giác thấy mình đã chết, nếu trong nhà thương người bệnh thấy bác sĩ y tá đang cố gắng hồi sinh cho mình hoặc tuyên bố mình đã chết.

    Cảm giác bình yên tột độ trong hầu hết mọi trường hợp. Chỉ có chừng 0,3% cảm thấy kinh hoàng hoặc cảm giác rơi vào địa ngục.

    Tiếng động lớn, ào ào, hoặc tiếng chuông reng lớn.

    Cảm giác mình rời khỏi xác (out-of body experience).

    Ðôi khi bệnh nhân kể lại hồn mình đi ra khỏi phòng bệnh và thăm những nơi khác và sau đó lúc tỉnh dậy kể lại những điều trông thấy.

    Ðường hầm tối tăm với một nguồn ánh sáng ở cuối đường hầm; đôi khi là một cái cầu thang. Không thấy nói đến cầu vồng như trong các câu chuyện của ta.

    Những nhân vật lộng lẫy hào quang gồm cả những bạn bè bà con đã chết trước đây, cũng như những khung cảnh lộng lẫy đầy ánh sáng. Những "người" này "nói chuyện" với nhau mà không cần ngôn ngữ thường mà dùng một loại thần giao cách cảm (telepathic, non-verbal way).

    Sau khi gặp bạn bè thân thuộc, người bệnh được đối diện với một Ðấng Tối cao đầy ánh sáng (supreme being of light). Ðiểm này thay đổi theo bối cảnh văn hóa, tôn giáo liên hệ.

    Duyệt lại toàn bộ cuộc sống (life review): Trong khoảnh khắc từng chi tiết của suốt cuộc đời người được duyệt lại cùng với tác dụng tốt xấu của mọi động tác trên cuộc sống của người khác (tương tự như Nghiệt Kính Đài của phương Đông). Ðấng Tối cao hầu như rất bao dung và thông cảm và không có vẻ gì phán xét, tuy nhiên đây có vẻ như là hình thức tự kiểm bao gồm hết cuộc đời của mình và đa số những kẻ đã từng trải qua chợt thấy sự quan trọng của lòng thương người ("love", có lẽ là chữ “nhân” của chúng ta) và của sự hiểu biết (knowledge)

    Sau đó người bệnh thấy mình bay lên một cõi cao xa, tương tự như kinh nghiệm các phi hành gia nhìn xuống trái đất.

    Ða số cảm thấy thích thú trong thế giới mới này đến nỗi họ không muốn trở lại trần thế, và đôi khi còn tức giận khi thấy mình phải trở về. Tuy nhiên phần đông chỉ thất vọng trong chốc lát và sau đó tự cho là may mắn được cứu sống trở lại nơi trần tục.

Trên đây chỉ là những kinh nghiệm được kể lại do những người đã từng chết hụt. Những người này có kể lại trung thực hay không, ngôn ngữ có diễn tả đúng những gì đã xảy ra hay không, chúng ta không thể nào biết được.

 Hai giả thuyết:

1) Một số khoa học gia tìm cách giải thích hiện tượng này như là một hiện tượng sinh lý học hoặc tâm lý học.

Giả thuyết chính cho rằng hiện tượng này là một loại ảo giác (hallucination) không có thật gây ra do những biến đổi sinh lý lúc người bệnh thập tử nhất sinh, như mức thán khí (carbon dioxide) trong máu quá cao, mức oxy trong máu nuôi dưỡng óc quá thấp (hypoxia), hoặc do ảnh hưởng của thuốc mê nhu ketamine, những chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitters) như serotonine, endorphine, một số thuốc "psychedelic drugs" tác dụng trên hệ thần kinh như  như LSD, psilocarpine, mescaline. Những hiện tượng như bất tỉnh (unconsciousness), cảm giác thoát ra ngoài cơ thể (out -of- body experience), thấy chớp sáng có thể xảy trong những trường hợp trên. Hoặc một số người cho đây là một sự hồi tưởng của những kỷ niệm lúc mỗi người trong chúng ta chào đời, chui từ lòng mẹ , đi qua một đường hầm vào một nơi đầy ánh sáng. Một cách giải thích khác là do bị thiếu oxy, những phần ngoại biên của võng mạc tuần tự ngưng làm việc, thu nhỏ lại thị trường (visual field) và làm người bịnh có cảm giác nhìn thấy một đường hầm.

Một phản biện khác cho rằng đường não điện đồ phẳng không có nghĩa là bộ não đã ngưng hoạt động. Theo Mark Cohen (UCLA), chuyên về hình ảnh thần kinh, lúc mà các hoạt động não không đồng bộ trong một hiện tượng gọi là "event-related desynchronization", các hoạt động có thể được phát hiện trên PET scan, functional MRI, hoặc CT scan trong lúc EEG thì lại trải thành đường thẳng. (3)

2) Hoặc chúng ta  có thể giải thích đây là một hiện tượng tâm linh, hồn rời khỏi xác và về bên kia thế giới, qua một thế giới khác. Nếu thật vậy, đây là một điều phấn khởi, vì thế giới bên kia có vẻ không tối tăm lắm. Thật vậy, cuốn sách thứ ba của bác sĩ Moody nói về vấn đề này mang tựa đề: "Ánh sáng phía bên kia" (The Light Beyond).

Bác sĩ chuyên khoa tim Pim van Lommel là một trong những người nghiên cứu tiên phong về hiện tượng chết hụt. Năm 2001 ông công bố một khảo cứu căn cứu trên 344 trường hợp tiềm năng và ngẫu nhiên (nghĩa là chờ  những trường hợp mới sẽ xảy đến sau khi các nhà nghiên cứu bắt đầu cuộc khảo sát, không phải nghiên cứu bằng cách lựa chọn những trường hợp đã từng xảy ra). Đây là những người từng bị tim ngừng đập (cardiac arrest) trong một số bịnh viện Hoà lan (Dutch) trong nhiều năm. Kết quả có 18% những bịnh nhân này  báo cáo sống qua " kinh nghiệm chết hụt". Điều này có nghĩa là các hiện tượng thần kinh sinh lý lúc não bộ bị thiếu oxy và ngưng hoạt động không giải thích được tại sao chỉ có một thiểu số người có hội chứng kinh nghiệm chết hụt. Bài báo kết luận: " " Vì còn thiếu bằng cớ khác chứng minh những thuyết giải thích NDE, thuyết cho rằng ý thức và ký ức nằm giới hạn  trong não bộ cần được bàn cãi, dù thuyết này chưa bao giờ được chứng minh là đúng. Làm thế nào mà người ta có thể trải nghiệm một  ý thức sáng suốt ở ngoài cơ thể trong khi đó thì não bộ bị chết lâm sàng , với não điện đồ (EEG) trở thành một đường phẳng? (nghĩa là không đo được điện của não bộ). Với lại, lúc người ta bị tim ngưng đập, thì 10 giây đồng hồ sau khi ngất xỉu, EEG đã thành đường phẳng rồi?”

“Hơn nữa, người mù còn còn mô tả những cảm nhận được xét là đúng với sự thật  sau khi họ trải nghiệm hiện tượng ra khỏi cơ thể như là một phần của NDE. NDE đẩy ra xa hơn những giới hạn của tư tưởng y học về bề rộng của ý thức con người, và tương quan giữa bộ óc và tâm trí.

Một lý thuyết khác cho  NDE có thể là một tình trạng ý thức đang biến chuyển , trong đó, bản chất, tri giác, và cảm xúc hoạt động độc lập với cơ thể đang bị bất tỉnh, nhưng vẫn giữ khà năng nhận thức mà không cần cảm giác (không nhờ đến các giác quan, chú thích của HVH )”. (4)

Bác sĩ Lim van Lommel giải thích NDE bằng hiện tượng ông gọi là " non-local consciousness" ("ý thức không-cục bộ"). Ông nghĩ rằng có thể não bộ chúng ta chỉ là một máy nhận (receiver) trung gian tiếp nhận tín hiệu từ một ý thức (non-local consciousness)  bao quát hơn, ngoài não bộ chúng ta, và không cần bộ óc, không cần ngũ quan cũng có khà năng cảm nhận được. Đối với Lim van Lommel, não bộ chúng ta nối liền với ý - thức-không-cục-bộ này tương tự như cách máy vi tính, điện thoại thông minh, máy truyền hình nối với ("interface") với mạng internet đang bao phủ toàn cầu bằng sóng điện từ. Cuốn sách mới nhất (2011) của ông mang tựa đề "Consciousness beyond life" (Ý thức bên kia sự sống). Trong cách lý giải ý thức (consciousness) không căn cứ trên vật thể (não bộ của con người), chúng ta có thể hao hao thấy quan niệm siêu hình Phật giáo và  của Tân Khổng học thời Đường và Minh của Trung quốc: lý [Li,理] thuần khiết, được bao bọc bởi khí [Qi, 氣] để thành hiện thực, từ đó các cảm xúc và xung đột nẩy ra..(5)

Dù sao, mục đích của bài này  không phải để cổ võ cho một niềm tin cá nhân nào đó. Khoa học không có tham vọng giải thích bản chất của ý thức và lý do của các sự việc mà chỉ ghi nhận chúng xảy ra như thế nào. Ý nghĩa của hiện tượng này ra sao có lẽ mọi người trong chúng ta một ngày nào đó cũng sẽ biết bằng kinh nghiệm cá nhân của mình; cho đến lúc đó chúng ta chẳng làm gì hơn là suy gẫm cho chính mình.

**
(1) http://vi.wikipedia.org/wiki/Địa_ngục

(2) R. A.  Moody, Jr Life after Life. The Investigation of a Phenomenon-Survival After Bodily Death, NY, HarperCollins. 1975

(3) ‘The EEG can appear flat even in the presence of high activity, when that activity is not synchronous. For example, the EEG flattens in regions involved in direct task processing. This phenomenon is known as event-related desynchronization (hundreds of references).” http://www.samharris.org/blog/item/this-must-be-heaven#sthash.kDgYPQk5.RIh8DQVR.dpuf

(4) Pim van Lommel. Near -death experience in survivors of cardiac arrest: a prospective study in the Netherlands. The Lancet.

http://profezie3m.altervista.org/archivio/TheLancet_NDE.htm

(“Another theory holds that NDE might be a changing state of consciousness (transcendence), in which identity, cognition, and emotion function independently from the unconscious body, but retain the possibility of non-sensory perception.”)

(5) Zhu Xi's formulation of the Neo-Confucian world view is as follows. He believed that the Tao(Chinese: 道; pinyin: dào; literally "way") of Tian (Chinese: 天; pinyin: tiān; literally "heaven") is expressed in principle or li (Chinese: 理; pinyin: lǐ), but that it is sheathed in matter or qi (Chinese: 氣;pinyin: qì). http://en.wikipedia.org/wiki/Neo-Confucianism

Bác sĩ Hồ văn Hiền   
(Nhóm AFAR)
Nguồn: Dr. Hồ Văn Hiền Blog

No comments:

Post a Comment

Tùy bút

H ình như thuở đó có một học sinh nghèo "ngoại đạo" mới vừa 16 tuổi, quê mùa nhút nhát, đang nuôi dưỡng một tình "yêu-hoa-cúc...