13 August 2015

CÂU CHUYỆN VĂN HỌC

Đôi giòng:
TS Đàm Trung Pháp là một nhà giáo dục ngôn ngữ, chuyên về ngữ học áp dụng, ngữ học so sánh, và phương pháp giảng dạy tiếng Anh như sinh ngữ thứ hai; những bài viết của ông, người ta thấy ngoài những kiến thức chuyên môn của bậc thầy còn hàm chứa cả cái nhạy cảm của một tâm hồn rất đa cảm. (SĐ)
***

TS Đàm Trung Pháp
Professor Emeritus
Texas Woman’s University

“… la moindre fleur de ta jupe…” (Victor Hugo)

Bút giả lấy hứng khởi cho câu chuyện văn học kỳ này từ cách sử dụng ngôn từ khuếch đại rất ngông của Victor Hugo (1802-1885) trong đoạn chót bài thơ Pour Jeanne seule (Viết riêng cho Jeanne) :
Et sais-tu ce qui m’occupe
Jeanne? C’est que j’aime mieux
la moindre fleur de ta jupe
que tous les astres des cieux
Jeanne ơi, em có biết điều chi
đang bận lòng anh không nhỉ ?
Đó là điều anh yêu đóa hoa nhỏ nhoi
trên váy em hơn tất cả tinh tú trên trời
Oh mon dieu! Có ai biết cô Jeanne mặc váy dài hay váy ngắn hoặc là có bao nhiêu “đóa hoa nhỏ nhoi” như vậy trên váy cô không?  Bút giả chỉ biết rằng sau khi tâm sự với nàng một hồi — nào là “anh chẳng cần biết gì đến vua đến chúa”,  nào là  “từ chân trời xa có một sợi dây xích nó luôn luôn kéo cẳng anh về hướng nhà em”, nào là “anh đang mê em quá chừng, em biết chăng” — thi hào Victor Hugo kết thúc bài thơ bằng một thứ chữ nghĩa khuếch đại, như đã trích dẫn bên trên, ở mức quán quân hoàn cầu!

Ngôn từ khuếch đại (hyperbole trong Pháp và Anh ngữ) còn được gọi là lộng ngôn, loạn ngôn, ngoa ngữ, ngôn ngữ phóng đại, bốc phét. Công dụng đặc biệt của loại ngôn từ này là để gia tăng (quá cỡ) cái mức độ  hỷ, nộ, ái, ố trong một ngữ cảnh với chủ đích nhấn mạnh, gợi sự chú ý, hoặc bỡn cợt. Bài thơ thất ngôn bát cú khuyết danh tác giả dưới đây, làm toàn bằng lộng ngôn ngoa ngữ, là một thí dụ thần sầu quỷ khốc trong tiếng Việt. Trong thí dụ này, từng đôi câu thơ lộng ngôn “đối” nhau chan chát hết sức kỳ thú :
Ta con ông trạng cháu ông nghè
Nói phét trên trời dưới đất nghe
Sức khỏe Hạng vương cho một đấm
Cờ cao Đế thích chấp đôi xe
Nhảy ùm xuống biển lôi tàu lại
Chạy tót lên non cõng cọp về
Bữa nọ ghé chơi vườn thượng uyển
Trăm nàng công chúa chạy ra ve
Thi ca trữ tình là môi trường tuyệt hảo cho ngôn từ khuếch đại ngự trị, khi mà con tim nhà thơ bị chấn động bởi những xúc cảm vỡ nước tràn bờ.  Lúc đó hình như thi ngữ càng lộng thì thi tứ càng bốc đồng, như khi Pablo Neruda  (1904-1973) không chút ngại ngần mệnh danh cô bạn gái mình là “nữ hoàng” trong bài thơ  La reina. Đây là lý do tại sao cô Matilde đã trở thành nữ hoàng của Pablo, qua một thứ lộng ngôn đến mức long trời lở đất:
Y cuando asomas
suenan todos los ríos
en my cuerpo, sacuden
el cielo las campanas
y un himno llena el mundo

Và khi em xuất hiện
tất cả những giòng sông náo động
trong thân anh, những hồi chuông
lay chuyển cả bầu trời
và một thánh ca ngập tràn thế giới
Ngoa ngữ cũng có thể thấy trong nội dung cố tình làm cho vô lý, nghịch lý, hay ngây ngô của các câu thơ có mục đích gợi sự chú ý tối đa của người đọc. Trong bài thơ  As I walked out one evening của thi sĩ người Mỹ (gốc Anh) rất nổi tiếng W. H. Auden (1907-1973) có 8 câu mà ý nghĩa thậm vô lý, khiến ai cũng phải để ý đến mà đọc đi đọc lại vì chúng ngộ nghĩnh lạ thường:
I’ll love you, dear, I’ll love you
Till China and Africa meet
And the river jumps over the mountain
And the salmon sing in the street
I’ll love you till the ocean
Is folded and hung up to dry
And the seven stars go squawking
Like geese about the sky

Anh sẽ yêu em, anh sẽ yêu em
Cho tới khi Trung Quốc chạm Châu Phi
Và dòng sông nhẩy cao lên đỉnh núi
Và cá hồi ca hát dọc đường đi
Anh sẽ yêu em đến khi biển rộng
Được gấp đôi rồi phơi nắng cho khô
Bảy hành tinh chợt kêu lên quang quác
Tựa  ngỗng trời đang bay lượn trên không
Nơi quê hương chúng ta, đệ nhất thi hào Nguyễn Du (1765-1820) trong tuyệt tác Truyện Kiều cũng sử dụng ngoa ngữ thần tình.  Ông chỉ cần dùng bốn từ đắc địa (thấm đá, rũ tầm) trong một câu thơ mà đã phóng đại gấp bội được nỗi đớn đau của cuộc chia ly nghiệt ngã sau khi Thúy Kiều tự nguyện bán mình chuộc cha:
Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tầm
Sau đó nàng Kiều rơi vào tay một số đàn ông háo sắc. Họ đều hứa sẽ bảo vệ tương lai nàng toàn bằng lộng ngôn ngoa ngữ. Sở Khanh dụ nàng đi trốn, lộng ngôn đến thế này là cùng:
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi
Đến như anh chàng râu quặp nổi tiếng là Thúc Sinh mà khi mê gái cũng hứa hẹn văng mạng:
Đường xa chớ ngại Ngô Lào
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta
Nhưng chỉ đại ngôn của Từ Hải là chắc như đinh đóng cột, vì người hùng “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” đã giữ trọn được lời thề non hẹn biển của mình với cô Kiều:
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung, nghìn tứ cũng là có nhau
Thi nhân đời Đường bên Tàu có vẻ ít dùng ngôn ngữ thổi phồng, nhưng khi điều ấy xảy ra, nghe cũng vui tai đáo để. Giả Đảo (779-843) đi thi nhiều lần không đậu, bèn vào chùa gõ mõ tụng kinh. Ông thường làm thơ để than thân trách phận, và ông cũng là người làm thơ chậm nhất trần gian –vì thế mà thi rớt hoài chăng– căn cứ vào câu thơ đầu với ngôn từ khuếch đại của bài ngũ ngôn tứ tuyệt mang danh Tuyệt cú của ông:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất thưởng
Quy ngọa cố sơn thu
Hai câu làm mất ba năm
Ngâm lên lệ rỏ đôi hàng vì thơ
Tri âm nếu chẳng biết cho
Trở về với núi thu xưa mà nằm
[Bản dịch Trần Trọng San]
Mức độ thương nhớ chồng đi lính thú phương xa như nữ thi sĩ Trần Ngọc Lan (không rõ năm sinh và năm mất) thuộc đời vãn Đường thì khó có ai sánh được. Mùa đông đến, nàng gửi áo lạnh ra biên thùy cho chồng, rồi người chinh phụ khóc cạn nước mắt, chỉ vì quá lo sợ chiếc áo không đến tay chồng!  Đó là ý nghĩa của bài Ký phu  nặng trĩu u sầu của người nữ sĩ Trung quốc thuở xa xưa :
Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
Tây phong  xuy thiếp thiếp ưu phu
Nhất hàng thư tín thiên hàng lệ
Hàn đáo quân biên y đáo vô?
Thiếp ở đất Ngô, chồng lính thú
Gió tây thổi thiếp, thiếp lo chồng
Một hàng thư gửi ngàn hàng lệ
Lạnh đến bên chàng, áo đến không?
[Bản dịch Trần Trọng San]
Một niềm sầu bi khắc khoải của thi nhân là nỗi nhớ mong người yêu, vì một lý do nào đó, đã không còn ở bên mình. Người ta kể rằng khi còn tuổi đôi mươi Jakob Lenz (1751-1792) bên trời Đức quốc đã trải qua một kinh nghiệm tình cảm nghiệt ngã — cô bạn gái của anh ta bỗng dưng biệt tích! Quá khổ đau vì tìm kiếm đâu cũng chẳng ra, Jakob chỉ còn biết làm thơ để cầu khẩn nàng về. Wo bist du itzt? (Em ở đâu bây giờ?) là bài thơ chan chứa nỗi nhớ thương cô bạn gái, qua một thi ngữ khuếch đại liên hệ đến trời cao đất rộng, sự vắng lặng nơi thị thành lẫn đồng hoang khiến cả chim chóc cũng bay đi theo nàng hết ráo.  Dưới đây là hai đoạn trích dẫn từ bài thơ Wo bist du itzt? của người thanh niên Jakob thất tình ấy:
Seit du entfernt, will keine Sonne scheinen
und es vereint
der Himmel sich, dir zartlich nachzuweinen
mit deinem Freund

Từ buổi em đi, mặt trời vụt tắt
và có mối đồng tâm thành thật
giữa cao xanh và người bạn em đây
nhớ thương em từng phút từng giây

All unsre Lust ist fort mit dir gezogen
still ueberall
ist Stadt und Feld. Dir nach ist sie geflogen
die Nachtigall

Mọi lạc thú cùng em vắng bóng
lặng thinh thành phố lẫn đồng hoang
theo em cũng vụt bay đi khỏi
cả chú chim nhỏ bé họa mi
Nguyen-Sa-4C-400Trong một hoàn cảnh tương tự, ngôn từ khuếch đại của người thi sĩ nổi danh với những bài thơ tình đẹp như mơ Nguyên Sa (1932-1998) thực khó quên, trong bài Gọi em:
Một buổi sáng tỉnh dậy không thấy em tôi chạy ra cửa sổ
gọi tên em rất to. Những tiếng kêu thất thanh vang trên hè phố.
Tôi bảo rằng: em phải về ngay. Nếu em là gió tôi sẽ làm trăng.
Em là trăng, tôi sẽ là mây. Nếu em là mây, tôi sẽ làm gió thổi.
Còn nếu em là chân trời xa tôi sẽ làm cánh chim bằng rong ruổi.
Em là mặt trời thì ở trên đường xích đạo tôi sẽ muôn đời
làm một kiếp hướng dương …
Bút giả thân chào tạm biệt, với hy vọng giới nam nhi sẽ thành tâm yêu mến những bông hoa nhỏ nhoi trên áo quần ai đó, để khỏi phải mở toang cửa sổ ra mà gào thét tên nàng cho đến hết cả hơi.

Đàm Trung Pháp

Tài liệu tham khảo

Mack, M., et al. (Eds.) (1995). The Norton anthology of world masterpieces (Volumes I & II). New York and London: W.W. Norton & Company.

Mathieu, G., & Stern, G. (1987).  Introduction to German poetry. New York:  Dover Publications.

Nguyên Sa (2000). Thơ Nguyên Sa toàn tập. Irvine, CA: Đời.

Pompidou, G. (1961). Anthologie de la poésie francaise.  Paris: Librairie Hachette.

Trần Trọng San (1993). Thơ Đường. Scarborough, Canada: Bắc Đẩu.
____________________
(Nguồn: Blog Đàm Trung Phán. Via: Sầu Đông)

No comments:

Post a Comment