Posted by The Observer - 2/2019
Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi này nhằm mục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời cận đại và hiện đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.
Cho dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan kiểu cưỡi ngựa xem hoa thì bạn cũng sẽ dễ dàng cảm nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc như thế nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán ngoài cổng các kiến trúc cổ trên đường phố, những đôi câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền chùa, môn cờ tướng Trung Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa thích nhất ở các công viên, chữ Song Hỷ màu hồng trong các lễ cưới….
Thế nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện thấy chỗ nào cũng có dấu tích của tiến trình “Thoát Trung”: một số bảng biển chữ Hán ở các đền chùa bị thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thậm chí cả đến câu đối cũng đều đã “La tinh hóa” như vậy, những chữ La tinh của đôi câu đối viết dọc từ trên xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra nước mắt; trong các viện bảo tàng, những phần trưng bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như không thấy nói gì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa hiệu trên đường phố đều treo biển “Hàng Việt Nam”, “Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ “Hàng Canada” mà hầu như chẳng thấy biển hiệu “Hàng Trung Quốc”, cho dù Trung Quốc là nước nhập khẩu hàng hóa lớn nhất vào Việt Nam.
Chưa thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về vấn đề Việt Nam “Thoát Trung”. Trong mấy tài liệu tôi sưu tầm được, các tác giả chưa nhất trí về nguồn gốc và tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát Trung”, việc phân tích động cơ “Thoát Trung” cũng khá đơn giản, và đó lại chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi đến Việt Nam tìm hiểu.
“La tinh hóa” chữ viết của Việt Nam
Trong tác phẩm “Khối cộng đồng tưởng tượng – nguồn gốc và sự truyền bá chủ nghĩa dân tộc” [Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism] của Benedict Anderson có viết: “Các tưởng tượng về nhà bảo tàng và quá trình tổ chức nhà bảo tàng đều có tính chính trị sâu sắc”. Tôi luôn cho rằng nếu muốn tìm hiểu lịch sử một nước, hoặc nói chính xác hơn, nếu muốn tìm hiểu một quốc gia đã hướng dẫn người dân của họ nhìn nhận lịch sử của nước mình như thế nào thì cách tốt nhất là hãy đến thăm viện bảo tàng lịch sử của quốc gia đó.
“Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam” là một tòa kiến trúc kiểu Pháp mang đặc sắc thuộc địa rõ ràng. Nơi đây từng là viện nghiên cứu khảo cổ có tên “Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc (École française d’Extrême-Orient, EFEO)”. Viện này có đóng góp to lớn cho công cuộc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử học, khảo cổ học, nhân học vùng Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á; trong đó cống hiến được truyền tụng nhất là thành tựu nghiên cứu về đền Angkor Wat ở Campuchia và về Hán học Viễn Đông cũng như Đôn Hoàng học. Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc còn phát minh ra một bộ chữ ghi âm Hán ngữ La Tinh hóa, từng một thời được dùng rộng rãi ở các nước nói tiếng Pháp hoặc dùng La Tinh ngữ.
Bộ chữ cái ghi âm ban đầu do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc thiết kế chắc là không khác mấy so với chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha phát minh hồi thế kỷ 16, nhằm tạo thuận tiện cho người phương Tây học Hán ngữ và tiếng Việt, cũng như cho việc truyền giáo và giao tiếp hàng ngày. Thế nhưng, cùng với tiến trình toàn cõi Việt Nam biến thành thuộc địa của Pháp còn Trung Quốc thì chưa hoàn toàn trở thành thuộc địa, hai loại chữ viết La tinh hóa ấy có số phận khác nhau. Sau khi Hệ thống Pinyin Hán ngữ do nhà nước Trung Quốc triển khai được Liên Hợp Quốc thừa nhận là Hệ thống Pinyin tiêu chuẩn quốc tế thì bộ chữ ghi âm Hán ngữ do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc phát minh và bộ chữ ghi âm Hán ngữ kiểu Wade–Giles [Wade–Gilles system] do người Anh phát minh cũng như một vài kiểu chữ phiên âm Hán ngữ khác đều dần dần mất đi địa vị quốc tế, không còn được sử dụng nữa.
Nhưng từ thế kỷ 19 thực dân Pháp lại ra sức đẩy mạnh sử dụng chữ Việt Nam La tinh hóa (chữ Quốc ngữ), dần dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính là để tầng lớp tinh hoa người Việt thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liên hệ văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học giả coi việc La tinh hóa văn tự Việt Nam tiến hành trong thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi đầu quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam.
Thế nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ Hán và chữ Nôm (một loại chữ Việt Nam hóa dựa trên nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn biến mất trong đời sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ Hán vẫn dùng song song với chữ Quốc ngữ. Sau khi thành lập chính quyền Bắc Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo thì chữ Hán hoàn toàn bị thay thế, trở thành vật hy sinh của “Phong trào xóa nạn mù chữ” do nhà nước triển khai. Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên bố sở dĩ phải đẩy mạnh dạy chữ Quốc ngữ chứ không dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hóa đơn giản dễ học. Nhưng trên thực tế cho dù là tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hay tầng lớp tinh hoa trong xã hội Việt Nam thời ấy, ai cũng đều hiểu rõ bỏ chữ Hán là bước đi cốt lõi của tiến trình “Thoát Trung” nhằm để Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng mấy nghìn năm của Trung Quốc.
Tự thuật của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam
Trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam [Vietnam National Museum of History] ở Hà Nội, phần lớn các văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vật trưng bày đều dùng tiếng Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung nhạy cảm” thì chỉ giới thiệu bằng tiếng Việt. Mặc dầu Trung văn không được dùng ở đây nhưng rất nhiều văn bản lịch sử và hiện vật lịch sử lại đều thể hiện bằng chữ Hán, nhất là phần lịch sử cổ đại.
Theo cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử Việt Nam có thể sơ lược chia làm 5 thời kỳ: 1) Thời tiền sử và các truyền thuyết; 2) Thời kỳ Bắc thuộc, tức thời kỳ Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc, bắt đầu từ khi tướng nhà Tần là Triệu Đà bình định Bách Việt và lập nước Nam Việt tại Phiên Ngung [Panyu] thuộc tỉnh Quảng Đông thời nay cho tới năm 938 sau CN thời Ngũ đại thập quốc [907-979], khi Ngô Quyền của Việt Nam đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại nhà Ngô độc lập; 3) Thời kỳ quốc gia độc lập, từ năm 938 đến năm 1884 khi nước Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa; suốt thời kỳ đó, Việt Nam là nước phiên thuộc của nhiều vương triều Trung Quốc, trong đó có 20 năm Việt Nam bị nhà Minh thu hồi thành thuộc quốc; 4) Thời kỳ là thuộc địa của Pháp; 6) Thời kỳ độc lập sau Thế chiến II.
Các ghi chép lịch sử thường có nội dung khác nhau bởi lẽ chủ thể viết sử khác nhau, điều đó không khó hiểu. Trong Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia, ở phần thời kỳ tiền sử, văn hóa Đông Sơn được giới thiệu nhiều nhất, coi là tiêu biểu của thời này, nhưng ở thời kỳ thứ hai thì nền văn hóa đó lại bị lược bỏ. Trên thực tế, phần giới thiệu duy nhất về thời kỳ thứ hai là một bảng biểu “Chống xâm lược” xuyên suốt thời kỳ này, toàn bộ đều viết bằng chữ Quốc ngữ. Thế nhưng khi đọc kỹ bảng biểu đó người ta có thể thấy một số “nội dung nhạy cảm”: chống Đông Hán, chống Lưỡng Tấn, chống Nam Triều, chống quân nhà Đường v.v… Theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì các nội dung này đều được định nghĩa là những sự kiện lịch sử “dân địa phương nổi dậy [dân biến]” hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo tàng này thì tất thẩy đều được coi là nghĩa cử “chống ngoại xâm”.
Bảo tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ thứ ba phần giới thiệu rất chi tiết nhưng sợi chỉ chính xuyên suốt phần này thì không thay đổi, vẫn là chủ đề “Chống xâm lược phương Bắc” như chống quân Tống, chống quân Nguyên, chống quân Minh, chống quân Thanh… song le lại không một chữ nào nói đến mối quan hệ giữa chính quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với nước phiên thuộc [tức Việt Nam]. Trong đó có một đoạn khá thú vị nói về thời kỳ 20 năm Minh thuộc: Theo ghi chép trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, sách sử chính thức của triều Hậu Lê Việt Nam thì những năm đầu nhà Minh, trong triều đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra sự kiện một người họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc bên ngoại của nhà vua định cướp ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt Nam để lập lại sự công bằng về đạo lý; sau khi diệt xong Hồ, các quan lại và người cao tuổi bản địa cho biết hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn người nối dõi, yêu cầu nhà Minh thu hồi quốc hiệu An Nam Quốc (Việt Nam), khôi phục chế độ đãi ngộ “quận huyện” của vương triều Trung nguyên trước kia. Trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, đoạn lịch sử này cũng được giới thiệu là “Nhà Minh xâm lăng Việt Nam, phạm tội ác tầy trời”.
Tự khoe là “chính thống Trung Hoa”
Cho dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tràn đầy tinh thần “Chống phương Bắc” nhưng từ quá trình lịch sử Việt Nam được thể hiện trong mọi trưng bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương triều Việt Nam có một quá trình chủ động “Thoát Trung”. Trên thực tế, vào các thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ vùng Trung nguyên Trung Quốc, các văn bản thư tịch của vương triều Việt Nam từng [có ý khinh bỉ] gọi hai kẻ thống trị phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “Mãn Di”, mà tự khoe mình là “Chính thống Trung Hoa”. Trong bảo tàng có một bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế triều nhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống quân Thanh, trên tờ chiếu đó thậm chí có mấy chữ Hán: “Kiến công Vạn lý tráng Trường thành”.
Vào cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra sức mở rộng lãnh thổ, dần dần chiếm lĩnh một vùng đất rộng ở châu thổ sông Mekong vốn thuộc Campuchia. Trong quá trình cưỡng chế đồng hóa người Cao Miên, Việt Nam càng cưỡng bức người “Cao man” (người Cao Miên) mặc Hán phục, học chữ Hán. Sách sử chính thức của triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” chép: “… Tai nghe nhiều thi quen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người Miên] dần dà hòa nhập với phong tục người Hán; nếu lại có thêm sự giáo hóa của chính quyền, dùng văn hóa Hoa Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục năm thì có thể làm cho họ chẳng khác gì người Hán [Hán dân].” Ở đây triều Nguyễn tự xưng là “Hán”, “Hạ” [tên cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là dòng chính thống [đích hệ] của văn hóa Trung Hoa.
Nhà văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân từng viết trên mục “Tư gia lịch sử” mạng Bloomberg về sự cai trị đất nước của vương triều phong kiến nhà Nguyễn như sau: “Nước Đại Việt dù ở xa trung tâm thống trị của vương triều Trung nguyên nhưng lại toàn lực bắt chước và cấy ghép các chế độ văn hóa, kinh tế, chính trị của Trung Quốc. Triều Lý (1010-1225) chia chế độ quan lại làm hai ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm; các địa phương có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu; trung ương còn có các trọng chức như Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thái bảo. Thời kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử và Chu Công, bắt chước chế độ khoa cử nhà Tống Đường…”
Phương thức sao chép các chế độ của Trung Quốc kéo dài suốt cho tới đêm trước ngày Việt Nam rơi vào vòng thuộc địa của Pháp. Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung Quốc trong hơn 1.000 năm cộng thêm hơn 900 năm bê nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về dùng, Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa quá ư sâu xa (sâu và rộng hơn nhiều so với Triều Tiên, Nhật). Trong “Khối cộng đồng tưởng tượng”, Anderson luận bàn thế này: “Tuy rằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế (kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ qua đều bảo vệ được nền độc lập, không bị Bắc Kinh xâm phạm, nhưng rốt cuộc họ vẫn cứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt chước người Trung Quốc để cai trị đất nước. Cơ quan nhà nước dựa vào chế độ “khoa cử” – kiểu thi viết về chủ đề là các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề bạt người tài; các văn bản của triều đình đều viết bằng chữ Hán; về mặt văn hóa, mức độ Trung Quốc hóa của giai cấp thống trị cũng rất sâu.”
Rồi Anderson phân tích: Sau năm 1895, các trước tác của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và sau này là của Tôn Trung Sơn… truyền vào Việt Nam khiến cho “mối quan hệ lâu dài giữa Việt Nam với Trung Quốc có tính chất không được [chính phủ thực dân Pháp] hoan nghênh”. Bởi thế nên vào khoảng năm 1915, chế độ khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống giáo dục thuộc địa với tiếng Pháp là môn học chính. Ngoài ra, chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa được hết sức đề xướng, qua đó làm cho các thế hệ mới của người Việt Nam thuộc địa do không thể tiếp xúc với thư tịch của thời đại các vương triều cũng như văn học cổ xưa mà bị cắt đứt mối liên hệ với Trung Quốc – cũng có thể gồm cả quá khứ của bản địa Việt Nam.
Theo phân tích của Anderson, đối với tầng lớp tinh hoa bản xứ Việt Nam, sự “Thoát Trung” do người Pháp cưỡng chế tiến hành không phải là chủ ý của người Việt, mà là một quá trình bị động. Như vậy sau khi đã đánh đuổi thực dân Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân đội Trung Quốc), Việt Nam hoàn toàn có thể trở lại con đường truyền thống “Trung Quốc hóa”, điều đó chẳng những có thể tăng cường mối quan hệ “láng giềng hữu hảo” giữa Việt Nam với Trung Quốc mà cũng có thể giúp cho người Việt Nam lập lại mối liên hệ với tổ tiên mình.
Song le sự thực lại không như vậy.
Phần tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam đến năm 1945 thì chấm dứt. Chỉ có thể tìm hiểu thời kỳ tiếp theo của lịch sử Việt Nam từ một bảo tàng khác – “Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia đường phố. Viện Bảo tàng này trưng bày thời kỳ từ khi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thức tỉnh cho tới ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ, người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp; về cơ bản có thể coi là lịch sử giai đoạn đầu quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tràn ngập sự tuyên truyền mang màu sắc thần thoại, điều này không có gì khó hiểu.
Tiền đề cấu tạo quốc gia dân tộc