Dạo:
Thề xưa chết đã từ lâu,
Bên dòng nước cũ đêm sầu đợi ai?
殘 冬 小 曲
臘 月 雨 泠 泠,
淒 風 累 廢 亭.
行 人 今 久 逝,
破 几 待 寒 盟.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Tàn Đông Tiểu Khúc
Lạp nguyệt vũ linh linh,
Thê phong lụy phế đình.
Hành nhân kim cửu thệ,
Phá kỷ đãi hàn minh.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:
Khúc Nhạc Nhỏ Cuối Mùa Đông
Tháng chạp, tiếng mưa rơi thánh thót,
Gió buốt làm phiền căn nhà trạm hoang phế .
Khách qua đường (dừng chân) nay đã bỏ đi từ lâu,
Chiếc ghế gãy (vẫn) đợi chờ câu thề hẹn (giờ đã) không còn (đã nguội lạnh).
Phỏng dịch thơ:
Bài Ca Nhỏ Cuối Đông
Thánh thót giọt mưa đông,
Nhà hoang, gió sổ lồng.
Người đi không trở lại,
Ghế gãy ngóng hoài công.
Trần Văn Lương
Cali, 12/2012
Lời bàn ngang của Phi Dã Thiền Sư:
Lời thề xưa đã chết, người xưa đi biền biệt, trạm dừng chân hoang phế.
Thương thay chiếc ghế đã gãy vẫn hoài công ngóng đợi.
Hỡi ơi!
No comments:
Post a Comment