Tiếng Thông Reo: Gần như không thể quan niệm được một cộng đồng có sinh khí, đặc biệt vào thời đại này, khi nhận ra cộng đồng ấy vắng bóng xã hội dân sự hay có một tình trạng xã hội dân sự èo uột và/hoặc bị bóp nghẹt. Tùy theo mức độ dân chủ của thế chế chính trị, xã hội dân sự có thể hợp tác với chính quyền đưa cộng đồng tiến lên hay quay ngược chiều mà phản kháng, chống lại nó. Xã hội dân sự, bởi vậy, là những tổ chức trợ lực hữu hiệu nhưng lắm khi lại là những lực lượng xung kích làm biến thiên cả một cộng đồng. Chính quyền nhiều khi "nói nhẹ không ưa mà lại ưa đòn vọt", không lắng nghe những cảnh cáo của người dân thậm chí còn áp bức dồn họ vào cái thế phải nghĩ: “Dân chủ ai bán mà mua, ai cho mà nhận, ai thừa mà xin.”
Việt Nam hôm nay nhìn bề ngoài thấy như ôn định chính trị nhưng thật ra đang manh nha những đối kháng gay gắt giữa bộ máy cai trị độc tài, tham nhũng và đám lê dân bị trị đã ý thức được vai trò và sức mạnh của mình và đang tập hợp lại thành những xã hội dân sự như một vũ khí đấu tranh. Thật đáng tiếc!
Thế nhưng "Xã Hội Dân Sự" là gì? Trào lưu của XHDS qua lịch sử ra sao? Những vấn đề ấy đối với đa số người Việt chúng ta vẫn còn tương đối mới mẻ.
Trong bài viết rất công phu với nhiều tham khảo dưới đây về XHDS, tác giả Lê Văn Bỉnh tập hợp quan điểm của các nhà xã hội học uy tín đã có dịp mổ xẻ vấn đề, đồng thời ông chia sẻ với chúng ta những ý nghĩ độc đáo của riêng ông. Bài viết hẳn là một tài liệu quý giá, một bản đúc kết đầy đủ đặc biệt cho những ai muốn nghiên cứu các tổ chức xã hội dân sự
.
Tiếng Thông Reo trân trọng giới thiệu với quý anh chị và các bạn.
**
XÃ HỘI DÂN SỰ: ĐẤU TRƯỜNG HAY LỚP HỌC?
• Lê Văn Bỉnh
This is the city … and I am one of the citizens;
Whatever interests the rest interest me …politics,
churches, newspapers, schools
Benovelent society, improvements, banks, tariff,
Steamships, factories, markets
Stock and stores and real estate and personal estate.
*Walt Whitman, Song of Myself, 1855
Trong mấy năm gần đây, tại Việt Nam nhóm từ “xã hội dân sự” (XHDS) thường xuyên được đề cập đến bởi các nhà hoạt động dân chủ, và đôi khi cũng xuất hiện trên báo chí của chính quyền hay thân chính quyền để phản ứng lại những người này. Hơn thế, XHDS còn được một số các cơ quan quốc tế viện trợ cho VN và một số học giả về Việt Nam nghiên cứu khá công phu.
Đối với nhiều người Việt trong cũng như ngoài nước, XHDS không những là một thuật ngữ mới lạ, mà ý niệm gợi lên cũng rất mơ hồ. Mới lạ vì nó chỉ xuất hiện chừng độ 10 năm nay trong nước. Mơ hồ vì cho tới nay vẫn chưa có một định nghĩa nào được cả hai phía chính quyền và các nhà hoạt động dân chủ đồng ý.
Về điểm sau này thì không có gì đáng ngạc nhiên, bởi lẽ ngay cả các cơ quan quốc tế cũng như nhiều học giả trên thế giới cũng đưa ra nhiều quan điểm khá khác nhau, thậm chí đôi khi trái ngược nhau nữa. Điều này có thể nhận ra được qua sự xuất hiện của nhiều tác phẩm khoa học chính trị, chính trị xã hội học (political sociology), cũng như qua các quyển kim chỉ nam mà các chính phủ dành cho các nhà ngoại giao của nước mình.
Bài viết này nhằm cung cấp vài thông tin về nguồn gốc và ý nghĩa của thuật ngữ XHDS nhằm giúp độc giả hiểu một cách đại cương về XHDS hầu có thể theo dõi những diễn biến gần đây và hướng đi của XHDS. Bài viết sẽ đề cập đến những điểm sau đây:
1. Thuật ngữ xã hội dân sự
2. Ý nghĩa xã hội dân sự
3. Trào lưu xã hội dân sự
I. THUẬT NGỮ XÃ HỘI DÂN SỰ
Căn cứ trên nguồn viện trợ ngoại quốc cho Việt Nam – có cũng như không có văn phòng đại diện tại Hà Nội, và dựa trên một số tường trình và nghiên cứu của họ, người ta có thể đoán khá chắc chắn rằng ngay từ lúc ban đầu, thuật ngữ xã hội dân sự được dịch ra từ tiếng Anh civil society. Thật ra, tĩnh từ civil trong tiếng Anh có nhiều nghĩa.
Khi dịch “civil” thành “dân sự”, người đọc không khỏi nghĩ ngay rằng nó đối kháng với hình sự (luật dân sự), hay với quân sự (toà án dân sự). Trong tiếng Anh, tĩnh từ civil còn được đem đối chiếu với religious (tôn giáo). Tuy nhiên dựa trên nội dung những nghiên cứu viết bằng tiếng Việt về XHDS thì tĩnh từ “dân sự” không mang các tính chất đối kháng này. Hơn nữa, cho rằng XHDS đối nghịch với “xã hội quân sự” hay “xã hội tôn giáo” có thể đưa đến ngộ nhận khá nguy hiểm cho các nhà họat động dân chủ cũng như cho các tổ chức XHDS!!
Một nghĩa khác của chữ civil là “tương đối lịch sự” (a civil reply), tức là không sỗ sàng, thô lỗ; chứ chưa đến mức lịch sự (polite) theo nghĩa chúng ta thường dùng. Trong thuật ngữ mà chúng ta đang bàn đến, chữ civil không mấy liên quan đến ý nghĩa này.
Civil còn có nghĩa là văn minh (civilized). Tự điển Merriam Webster’s Collegiate Dictionary, 10th edition (1993) – cũng như trong ấn bản 1974 --còn cho thí dụ civil society hiểu theo nghĩa này. Nói khác đi, civil society có thể dịch sang tiếng Việt là “xã hội văn minh”. Theo xã hội học, dịch như thế là khá sát ý nghĩa. Thật vậy, con người được nuôi dưỡng trong gia đình, rồi sau đó mới tiếp xúc và sinh hoạt với cộng đồng. Khi ra cộng đồng thì không thể cư xử như khi ở gia đình, nghĩa là cần phải giữ gìn ý tứ, ngôn ngữ, cử chỉ, tức phải cư xử cho văn minh. Thỉnh thoảng cũng có tác giả dùng civil society để đối chiếu với natural society, xã hội tự nhiên, tức chưa được tổ chức qui cũ với sự xuất hiện của nhà nước. Nhưng nếu dịch civil society là xã hội dân sự thì “uncivil society” – như được đề cập trong vài tác phẩm viết về tình hình chính trị tại một số quốc gia thời hậu Cộng Sản -- sẽ phải dịch lthế nào cho ổn?
Theo thiển ý, nghĩa phổ biến nhất của tĩnh từ civil gắn liền với “công dân” (citizen). Thật vậy, các tự điển dưới đây, xuất bản không bao lâu sau khi có sự hồi sinh của thuật ngữ civil society, cho thấy điều đó.
- Tự điển Webster’s Encyclopedic Unabridged Dictionary of the English Language (1989) đưa ra định nghĩa dưới đây:
Civil: of, pertaining to, or consisting of citizens (của, thuộc về, hay gồm có công dân) với các thí dụ: civil life, civil society
- Tự điển The Amrican Heritage Dictionary of the English Language, 4th edition (2000) định nghĩa chi tiết hơn:
Civil: Of or relating to citizens and their interrelations with on another or with the state. (của hay liên hệ đến công dân và những mối tương quan của họ với nhau hay với nhà nước). Civil society còn được đưa ra làm thí dụ cho định nghĩa nàỵ
Thật ra tự bản thân “civil society” cũng xuất phát từ ý niệm của Aristote mà tiếng Hy Lạp gọi là koinomìa politilè, nó có liên hệ lâu đời với sự khám phá ra chính trị học trong Hy Lap Cổ. Rồi ý niệm này du nhập vào La Mã với tiếng Latin là societas civilis. Tiếng Pháp là société civile thì không có gì lạ. Tuy nhiên, khi đến Đức, cái nôi của triết học, nó được dịch là bugerliche Gesellschaft trong đó bugerliche vừa có nghĩa là burgeois (trung lưu, tư sản) vừa có nghĩa là citoyen (thị dân). Hiện nay thì tiếng Đức Zivilgeselleschaft được dùng để bàn về XHDS. Như vậy thì civilisis, civil, civile, Zivil trông cũng không khác gì nhau!
Tại Trung Quốc có ít nhất 4 thuật ngữ được dùng để dịch civil society: (a) shimin shahui (xã hội thị dân, city-people or town-people society), (b) gongmin shahui (xã hội công dân, citizens’ society, (c) wenming society (xã hội văn minh, cilivized society), và (d) minjian shahui (xã hội dựa trên dân người, people-based society). Trong thuật ngữ sau cùng này, min có nghĩa là “dân” (the people) và minjian có nghĩa là “giữa người dân với nhau”; và khái niệm minjian shahui đã đưa đến nhiều tranh luận tại Hoa Lục bởi vì nó đối kháng giữa nhà nước (guo) và người dân (min), hàm ý đối chiếu “ý dân” (minye) và “ý trời” (tianye) trong xã hội truyền thống --điều mà đảng Cộng Sản Trung Quốc không thể nào chấp nhận, vì đảng đã là “trời” rồi và không người dân nào được quyền trái ý đảng cả!
Người Nhật dùng chữ shimin shakai để dịch civil society, trong đó shimin được xem là tương đương với citizen (Anh), citoyen (Pháp) hay burger) Đức. Theo một nhà nghiên cứu người Nhật, trong thuật ngữ này, “công dân” không có nghĩa là người dân trong một đơn vị hành chánh nào đó, hay thuộc một giai tầng xã hội nào đó; mà là những người yêu chuộng và hoạt động cho tự do, công bằng. Giới bảo thủ dùng chữ kokumin để chỉ công dân của một nước (citizens of the nation).
Tóm lại, nếu chọn giữa “xã hội dân sự” và “xã hội công dân”, người viết nghĩ thuật ngữ “xã hội công dân” thích hợp hơn. Trước hết, thuật ngữ “xã hội dân sự” dễ đưa người ta nghĩ ngay rằng “xã hội dân sự” là đối kháng với xã hội quân sự, hay xã hội hình sự -- như đã bàn ở trên. Những người đề nghị cần có hay không cần có một qui chế cho XHDS không nghĩ đơn giản như thế. Thuật ngữ “xã hội công dân” tự nó đủ khả năng gợi cho người đọc nghĩ đến quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân trong việc xây dựng hay cải tiến xã hội đương thời thành một xã hội tốt đẹp (a good society) – dù đó là xã hội Việt Nam, hay xã hội các nước thuộc thế giới thứ ba, hoặc xã hội các nước được xem là đã dân chủ về chính trị và đã phát triển về kinh tế. Nói khác đi, thuật ngữ “xã hội công dân” hàm ý tích cực hơn, tức mời gọi hành động. Tuy nhiên hành động không hẳn phải là phê phán chỉ trích để chống đối và lật đổ. Hành động cũng có thể là tích cực, tức phê bình xây dựng, hợp tác, hoặc ít hoặc nhiều với chính quyền hay với các tổ chức khác, trong nhiều lãnh vực như công quyền, kinh tế thương mại, văn hóa vv. nhằm cải thiện hiện trạng xã hội nói chung. Tuy nhiên, chủ trương “xã hội công dân” sẽ làm gì hay phải làm gì để đạt các mục tiêu đó lại là chuyện khác. Đây thuộc về nội dung, tức là phạm vi (sphere), hay “không gian” (chữ dùng trong nước) và khuynh hướng của xã hội công dân trong nước cũng như trên toàn cầu, mà chúng ta sẽ đề cập sau.
Nhóm từ “xã hội dân sự” còn được dùng như cụm tính từ, chẳng hạn trong “các tổ chức xã hội dân sự” (civil society organizations); “các tổ chức xã hội dân sự quốc tế/toàn cầu” (international/global civil society organizations) mà chúng ta sẽ có dịp nói đến.
Trong phần còn lại, tác giả cũng dùng thuật ngữ “Xã Hội Dân Sự” với lý do là vì từ lâu nó đã được sử dụng rộng rãi trong nước, và cũng bắt đầu tiếp xúc với người Việt hải ngoại qua truyền thông. Nếu chúng ta quan niệm ngôn ngữ chỉ là phương tiện thông đạt, giúp con người hiểu nhau, thì cũng có thể xem là đạt được mục tiêu nếu nó giúp chúng ta hiểu toàn ý hay phần lớn ý. Do đó từ vựng sẽ không còn là vấn đề đáng để tranh luận nữa.
II. Ý NGHĨA XÃ HỘI DÂN SỰ
Để tiện việc trình bày và phân tích, chúng ta hãy hình dung một lãnh địa (territory) trong đó có 4 khu vực:
1. Khu Vực Gia Đình. Gồm có tất cả các hộ tiểu gia đình và đại gia đình. Nhiệm vụ của gia đình là duy trì và phát triển nòi giống, nuôi dưỡng, nâng đỡ, giáo dục các thành viên. Mối quan hệ giữa các thành viên trong cùng hộ gia đình, thậm chí cũng như với các hộ gia đình khác, là mối quan hệ đặc thù, không có tính cách quyền lực và vụ lợi. Có điều đáng ghi nhận là có nhiều gia đình đã đóng góp nhân sự và của cải cho công tác hay cho các cơ quan từ thiện, văn hóa nghệ thuật vv.
2. Khu Vực Thị Trường. Thị trường là nơi thuận mua vừa bán hay trao đổi, có tính cách vụ lợi, mưu tìm lợi nhuận trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Thị trường lớn hay nhỏ, hoạt động mạnh hay yếu, tùy thuộc chế độ chính trị, phong tục tập quán, thời vụ, chu kỳ kinh tế. Cũng không ít các cơ sở thương mại đã ảnh hưởng không nhỏ đến các khu vực kia, hoặc trích lợi nhuận để đóng góp vào các cơ quan nghiên cứu, công tác nhân đạo, chính trị vv.
3. Khu Vực Nhà Nước. Có nhiệm vụ bảo vệ lãnh địa, cư dân, duy trì trật tự, hay điều tiết (phát triển hay hạn chế) sinh hoạt của các định chế trên bằng quyền hành của mình. Quan trọng nhất trong quan niệm này là nhà nước độc quyền sử dụng quyền lực và các phương tiện cưỡng chế để làm những việc đó (From Max Weber do Gerth & Mills hiệu đính,1946). Tại nhiều quốc gia, đặc biệt tại các quốc gia kinh tế phát triển, nhà nước cấp trung ương cũng như địa phương cũng cung cấp những khoản tài chánh lớn lao để giúp các tổ chức từ thiện, bảo vệ môi sinh, dã thú, phát triển văn hóa, giáo dục, vệ sinh vv.
4. Khu Vực Xã Hội Dân Sự. Đây cũng là khu vực “tổng gộp” (aggregation) những hiệp hội, đoàn thể, các trường đại học vv. gọi chung là các “tổ chức”. Nhưng có bao gồm trong các “tổ chức” này các đảng phái chính trị, các tôn giáo hay các nhóm hành động (action groups) không? Các “tổ chức” này trên thực tế có thể nhận tài trợ từ 3 khu vực kể trên. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, nơi mà các nguồn tài chánh khá eo hẹp, các “tổ chức” này còn nhận những khoản tài chánh lớn từ các tổ chức phi chính phủ (non-government organizations). Nói cách khác, câu hỏi đưa ra là khu vực XHDS trên thực tế có vị trí thế nào đối với 3 khu vực kia (độc lập hoàn toàn hay có những lãnh vực chung)?
Nhìn từ khía cạnh hoạt động, thì hoạt động của khu vực Gia Đình là nuôi dưỡng giáo dục qua tình thương yêu, của khu vực Thị Trường là mua bán trao đổi qua đồng tiền, của khu vực Nhà Nước là phối hợp điều động qua quyền lực, của khu vực XHDS là để đạt những mục tiêu đề ra qua tiếp xúc thông đạt. Khi những phương tiện này được sử dụng bất cập hay thái quá, cũng như thiếu ý thức trách nhiệm thì khu vực đó sẽ không còn lành mạnh nữa, và có thể sẽ ảnh hưởng lây lan đến các khu vực khác, tức là đến toàn bộ xã hội, hoặc ít hoặc nhiều. Trong 4 khu vực này, do tính đa nguyên và đa dạng cũng như tính đa năng và uyển chuyển của nó, khu vực xã hội dân sự có khả năng dễ tự điều chỉnh nhanh những sai sót của mình, cũng như có khả năng phê phán khách quan những sai sót của các khu vực khác, và đưa ra những đề nghị xây dựng.
Có một số nhà nghiên cứu xem khu vực XHDS gồm những nhóm quyền lợi, các tổ chức tôn giáo, những cơ quan thiện nguyện, những tổ chức nghề nghiệp vv., và cho rằng khu vực XHDS nằm giữa 2 khu vực Thị Trường và Nhà Nước. Tuy nhiên, họ không xem các đảng phái chính trị và các nhóm hành động là những thành phần của XHDS. Lý do là vì các chính đảng có các phương thức tổ chức, đề cử, ứng cử đặc thù và có thể đã, đang hay sẽ có ít nhiều thành viên trong chính quyền, cho nên được xem như thuộc khu vực Nhà Nước. Còn các nhóm hành động thì sự tập hợp chỉ có tính cách nhất thời nhằm đạt nguyện vọng yêu cầu của mình. Quan điểm XHDS nằm ngoài chính quyền và đối kháng với chính quyền càng khiến cho các chính quyền không dân chủ e ngại, do đó hạn chế sự hiện diện hay tham dự của XHDS vào sinh hoạt công trong nhiều lãnh vực --thậm chí không cho phép hình thành, hoạt động, hay đàn áp ngay từ trứng nước. Theo mô hình này, thì khu vực Gia Đình được xem là riêng tư, vì thiếu tính cách “công cộng” như 3 khu vực còn lại; và 3 khu vực còn lại này phân lập và thường khi đối kháng nhau, nhất là giữa 2 khu vực XHDS và Nhà Nước.
Một khuynh hướng khác, hiện nay được khá nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận, cho rằng khu vực XHDS có mối tương tác mạnh mẽ với cả 3 khu vực kia nhìn từ khía cạnh hoạt động công cộng. Mô hình phổ biến này được trình bày như sau:
Thomas Janoski, trong quyển “Citizenship and Society: A Framework of Rights and Obligations in Liberal, Traditional and Social Democratic Regimes” (1998) còn đi xa hơn nữa. Ông cho rằng 4 khu vực trên đều có chung với nhau một số lãnh vực; nhưng ở đây chúng ta chỉ chú trọng đến những lãnh vực mà XHDS có chung với những nhu vực khác mà thôi. Theo Janoski, ngoài những lãnh vực độc lập của riêng mình như: (1) các hội thiện nguyện (phụ trách các vấn đề an lạc, công ích, tôn giáo); (2) các cơ sở truyền thông, giáo dục, y tế vv. của tư nhân; (3) các phong trào quần chúng; (4) các nhóm tự lực, khu vực XHDS còn có chung với khu vực Nhà Nước trong các lãnh vực (5) các chính đảng; (6) an lạc công cộng, giáo dục công, truyền thông công, nghiên cứu & phát triển; có chung với khu vực Thị Trường trong các lãnh vực (7) các nghiệp đoàn công nhân; (8) các hiệp hội chủ nhân, (9) các hiệp hội người tiêu thụ; và có chung với khu vực Gia Đình trong lãnh vực: (10) những chi tiết về đời sống riêng tư được công bố qua truyền thông, toà án vv. Tùy theo truyền thống và tùy theo thời kỳ mà kích thước của không gian chung này có thể thay đổi. Chẳng hạn, không gian chung giữa XHDS với Nhà Nước và với Thị Trường ở Hoa Kỳ thì khá nhỏ so với đối phần ở Đức và Thụy Điển; trong các quốc gia thần quyền, thì khu vực chung giữa Nhà Nước và XHDS rộng hơn ở các nước thế quyền.
Brian O‘ Connell, trong quyển sách mỏng súc tích “Civil Society: The Underpinnings on American Democracy” (1999), chia xã hội Hoa Kỳ thành 4 yếu tố: Nhà Nước (tư cách công dân, tự do, xác quyền hạn, tòa án, an ninh, giáo dục, bỏ phiếu, tham gia chính đảng, tuân hành luật pháp, trả thuế, tiếp xúc văn minh lịch sự); Cộng Đồng (láng giềng, họ đạo, hiệp hội, câu lạc bộ, nơi giải trí, nơi làm việc, nghệ thuật, nhà thương, chính quyền địa phương, tiếp xúc văn minh lịch sự vv.); Thương Mại (tự do kinh doanh, công việc làm, thị trường và tự do lựa chọn, truyền thông, hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn, trách nhiệm xã hội, thiện nguyện công ty, hoạt động công ích của nhân viên, tiếp xúc văn minh lịch sự ); và Thiện Nguyện (tình nguyện viên, hiệp hội, tôn giáo, đại học và bảo tàng viện tư, câu lạc bộ, quỹ tài trợ, hội đồng quản trị trường học và bệnh viện, các nhóm cứu trợ cấp tốc, quỹ trợ ích, chính đảng, tiếp xúc văn minh lịch sự). Theo Connell, “Xã hội dân sự hiện hữu ở lãnh vực chung (intersection) nơi mà các yếu tố xã hội gặp gỡ nhau để bảo vệ và nuôi dưỡng cá nhân, và nơi mà cá nhân hành động để cung ứng cho các cá nhân khác sự bảo vệ tương tự và các cơ hội giải phóng cho những các nhân khác nữa.” Ông nhấn mạnh đến “cá nhân” vì xã hội Hoa Kỳ đặt nền tảng trên tự do cá nhân, như chúng ta thừa biết.
Trước khi đề cập đến sự đo lường và ảnh hưởng của khu vực XHDS đối với các khu vực khác theo mô hình này, thiết tưởng chúng ta cũng nên bàn đến sự phân loại XHDS. Theo Mary Kaldor, một nữ học giả người Anh, trong quyển Global Civil Society: An Answer to War (2003), XHDS có thể phân ra làm 5 loại sau đây:
(1) Xã Hội Lịch Sự (society civilis) chi phối bởi khuôn phép lịch sự; sự bạo động giảm thiếu đến mức tối đa, nhất là phải sinh hoạt trong khuôn khổ luật pháp. Muốn được vậy, phải cần sự hiện hữu của Nhà Nước. Nói cách khác, XHDS không phân biệt với Nhà Nước, mà là phân biệt với các xã hội phi dân sự (tức các xã hội tự nhiên, natural society) và với chiến tranh.
(2) Xã Hội Trung Lưu (burgerliche gesellschaft, bourgeois society), hình thành do thương mại phát triển vào thời đại sáng thế (the Enlightenment), thời kỳ mà con người nhờ kinh tế khá giả cho nên có thêm thời giờ và phương tiện để giải trí, giao tiếp vv. Trong tình huống đó, thì thị trường, giai cấp, dân luật, các tổ chức … đều là thành phần của XHDS. Và XHDS tương phản với Nhà Nước. Hegel gọi đó là “sự thành công của thời đại mới”; Marx cho đó là “kịch trường của lịch sử.”
(3) Xã Hội Dân Sự Theo Các Nhà Hành Động (the activist version) gần giống như XHDS của cánh đối lập Trung Âu hồi thập niên 1970 và 1980, công nhận Nhà Nước, nhưng đòi hỏi Nhà Nước không những phải hạn chế quyền lực mà còn phải tái phân quyền lực. Theo định nghĩa này, thì các tổ chức của XHDS với cách tổ chức tự trị và phát triển của mình có thể ảnh hưởng đến điều kiện và môi trường mà mình đang sống; không cần phải thông qua các tổ chức chính trị chính thức, tức được Nhà Nước cho phép. Nói cách khác, XHDS và Nhà Nước mỗi phía có không gian riêng của mình.
(4) Xã Hội Dân Sự Theo Quan Điểm Tân Phóng Khoáng (the neoliberal version), tiếp theo sự tan rã của khối Cộng Sản 1989, muốn đưa con người trở lại thời đại chính trị tự do hành động (laissez-faire politics), nở rộ các tổ chức vô vị lợi, các cơ quan thiện nguyện không những hạn chế quyền hành của Nhà Nước, mà còn thay thế Nhà Nước đảm đang những công việc mà Nhà Nước không cáng đáng hết được. Và XHDS được coi là “khu vực thứ ba” (the third sector), bên cạnh 2 khu vực Nhà Nước và Thị Trường.
(5) Xã Hội Dân Sự Theo Quan Điểm Hậu Hiện Đại (the postmoderm version) là một đấu trường của đa nguyên và của ganh đua, lịch sự cũng như không lịch sự. Những người theo quan điểm này chỉ trích quan niệm xem XHDS là sản phẩm của phương Tây muốn áp đặt nó cho toàn cầu. Khuynh hướng này chủ trương cần phải chú trọng đến tình trạng văn hóa, tôn giáo khi nghiên cứu XHDS.
Theo Kaldor, tất cả 5 quan điểm trên về XHDS đều mang cả hai tính cách mô tả lẫn tính cách qui chuẩn, và bà còn cho biết quan điểm của bà gần gũi với quan điểm của các nhà hành động. Quan điểm của bà như vậy đã phân lập giữa XHDS và Nhà Nước. Trước kia, vào thế kỷ 17 và 18, các triết gia chính trị học xem hai thực thể này là cộng sinh (coterminous), và chỉ chú trọng đến khía cạnh giá trị “đúng” hay không đúng của luật pháp do Nhà Nước ban hành. Trái với chủ trương của Thomas Hobbes (1588 -1679) cho rằng có tự do là khi con người không bị chống đối hay cưỡng chế lúc hành động để đạt được điều mình mong muốn; còn luật pháp chỉ là một hình thức cưỡng chế, John Locke (1632 – 1704) chủ trương rằng luật pháp không làm suy giảm mà còn tăng cường quyền tự do của con người vì nó giúp người ta không bị kẻ khác tấn công. Tuy nhiên, Locke cũng phân biệt luật tốt và luật xấu: luật tốt công nhận và bảo vệ những quyền tự nhiên của con người và luật xấu làm phương lại đến tự do của con người; do đó nhà nước cần phải ra những luật lệ tốt, và tránh ra những luật lệ xấu.
Jean-Jacques Rousseau (1712- 1778) phân biệt giữa luật đúng nghĩa của nó (true law), tức luật phản ảnh “ý chí chung” (general will) và luật trên thực tế (actual law), tức luật thực sự áp dụng. Trong quyển Émile, còn gọi De l’éducation (1762), từng bị cấm ở Pháp và Genève do quan điểm của ông về triết lý, chính trị và nhà nước, ông đưa ra nhận xét: “Tinh thần phổ quát của luật pháp ở tất cả các quốc gia là ưu đãi kẻ mạnh chống lại kẻ yếu, và kẻ có của chống lại kẻ tay không: điều bất lợi này là không tránh khỏi và không có biệt lệ.” Trong “Contract social” (xuất bản cùng năm 1762), Rousseau viết: “Qua xã hội dân sự, con người có được tự do tinh thần, chỉ nó không thôi cũng làm cho con người thành chủ nhân của chính mình; bởi vì bị cai trị bằng sở thích không thôi chỉ là nô lệ, trong khi tuân thủ pháp luật cho chính mình viết ra thì là tự do.” Sang thế kỷ 19, mới có sự phân biệt giữa Nhà Nước và XHDS, nhưng XHDS thời kỳ này lại gồm cả thị trường, tuy không gồm khu vực gia đình. Và mãi đến thế kỷ 20, sự phân lập giữa Nhà Nước và XHDS mới rõ nét.
Một câu hỏi được đặt ra là các tổ chức XHDS tại các nước độc tài -- Cộng Sản cũng như không Cộng Sản -- các tổ chức không nằm trong bộ máy tổ chức của Nhà Nước, nhưng do Đảng Cộng Sản hay do đảng duy nhất cầm quyền lập ra có được xem là các tổ chức XHDS hay không? Khuynh hướng hiện nay vẫn xem chúng là những tổ chức XHDS. Người ta không quên là chính các tổ chức thuộc loại này đã tham gia khởi xướng các cuộc Cách Mạng Nhung (Velvet Revolutions) tại Đông Âu khi gặp thời cơ thuận lợi xuất phát từ Liên Xô qua các cuộc cải tổ về cơ cấu (perestroika) và cởi mở (glasnost) khi Gorbachev lên cầm quyền năm 1985. Chẳng hạn tại Ba Lan lúc ấy đã có sẵn các tổ chức quần chúng như các tổ chức thợ thuyền, các câu lạc bộ thể thao, các đoàn thanh niên, các hội phụ nữ, các hội văn nghệ sĩ vv. Điều đáng lưu ý là tại Ba Lan lúc bấy giờ các nhà thờ (thuộc Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã), khoảng 14,000 với 7,000 họ đạo và 20.000 linh mục, có ảnh hưởng truyền thống lâu đời và sâu sắc với các địa phương lại độc lập với Nhà Nước. Chính các họ đạo cũng trở thành các tổ chức XHDS, và là nguồn cung cấp nhân sự và phương tiện cho các tổ chức quần chúng đang từ từ tuột khỏi tầm tay đảng Cộng Sản.
Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng chủ trương và hành động đứng ra thành lập các tổ chức chuyên môn nghề nghiệp để đặt duới quyền sử dụng của Nhà Nước đã đưa nước Ý tới chế độ phát xít với Mussolini. Chúng ta có thể xem đây là “chủ nghĩa thiết lập” (corporatism) trong đó “Nhà Nước thiết lập” (corporate state) bày dựng một “XHDS thiết lập” (corporate civil society) để củng cố quyền lực và thực thi các chính sách của mình.
Tại Tiệp Khắc, nơi mà từ lâu giới trí thức đã không quá mê muội mù quáng với chủ nghĩa Cộng Sản, các cuộc biểu tình của học sinh sinh viên bị cảnh sát đàn áp ngày 17/11/1989 đã dẫn đến sự tham gia đông đảo của quần chúng, có lúc lên đến 500.000 người và nhiều tổ chức XHDS (lúc đó chỉ có khoảng 500, có giấy phép). Cuộc tổng đình công toàn quốc ngày 24 đã khiến chính quyền trung ương từ chức, bãi bỏ điều khoản độc đảng trong Hiến Pháp, dẹp sạch các rào cản biên giới với các quốc gia láng giềng. Václav Havel được bầu làm Tổng Thống. Nhà lãnh đạo tinh thần của cuộc Cách Mạng Nhung này kêu gọi phát triển một XHDS trên quê hương của mình để đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Trong hai thập niên vừa qua, nhiều nhà nghiên cứu chính trị có khuynh hướng uyển chuyển và linh động hơn. Họ cũng phân biệt 2 thực thể chính trị Nhà Nước và XHDS, nhưng không coi sự đối kháng giữa 2 thực thể này là điều hoàn toàn không thể tránh được.
Đến đây, chúng ta có thể trở lại mối tương tác của XHDS với 3 khu vực kia. Trong quyển Civil Society: Berlin Perspectives do John Keane (2006) hiệu đính, Jurgen Kocka đưa ra định nghĩa XHDS theo 3 phương cách có liên hệ với nhau, như sau: (1) một loại hoạt động xã hội (social action); (2) một lãnh vực (area) hay không gian (sphere) có liên hệ nhưng riêng biệt với ba lãnh vực thị trường, nhà nước và gia đình –như chúng ta đã đề cập trên đây; (3) cốt lõi của một dự thảo hay một dự án có một vài tính cách không tưởng – nghĩa là có tính cách qui chuẩn, tức nhằm mục tiêu nào đó.
Vì là một loại hoạt động xã hội, cho nên XHDS (a) hướng tới giải quyết các xung đột, chấp nhận tranh luận, dung hòa và hiểu biết trong công chúng: XHDS được thực hiện trong không gian công cộng (public sphere); (b) nhấn mạnh sự độc lập cá nhân và sự tự tổ chức của tập thể; (c) chấp nhận đa nguyên, dị biệt và căng thẳng là chính đáng; (d) hoạt động không dung bạo lực; và (e) liên hệ tới những vấn đề tổng quát, chẳng hạn hướng tới “cái tốt đẹp chung” (common good) ngay cả khi không có cùng một quan điểm về khái niệm này.
Như vậy, theo định nghĩa XHDS của Jurgen Kocka, thì Gia Đình, Thị Trường và Nhà Nước đều có thể tham gia vào XHDS. Ngược lại XHDS cũng chịu ảnh hưởng hay ảnh hưởng đến chính trị và luật pháp; đến kinh tế và thương mại và đến đời sống riêng tư. Trình bày theo hình học, chúng ta có thể vẽ 3 khoanh tròn cắt nhau (Gia Đình, Thị Trường và Nhà Nước, cắt nhau vì có những cái chung); rồi sau cùng vẽ khoanh tròn XHDS cắt cả 3 khoanh tròn kia. Lối trình bày này có thể giúp chúng ta hiểu được khuynh hướng XHDS hiện nay – và có thể trong tương lai nữa-- tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Vấn đề không kém quan trọng là làm thế nào để tìm hiểu cụ thể sinh hoạt của các tổ chức XHDS tại một quốc gia, cũng như ảnh hưởng của chúng đối với chính quyền trung ương và địa phương cũng như đối với đời sống của dân chúng. Một tổ chức quốc tế có tên CIVICUS đã đưa ra một phương pháp đo lường hoạt động của XHDS tại 43 quốc gia trong đó có Việt Nam, trong bộ sách có tựa đề là “CIVICUS: Global Survey of the State of Civil Society” (2007). Trước hết, XHDS được định nghĩa là “đấu trường, bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường, nơi mà người ta cùng gắn bó nhau để đẩy mạnh những lợi ích chung” (the arena, outside the family, the state, and the market where people associate to advance common interests). CIVICUS bổ sung vào định nghĩa giản dị này 2 ý niệm: (a) đấu trường là một lãnh vực đặc biệt của một xã hội người ta cùng đến để tranh luận, bàn cải, tập hợp và ảnh hưởng đến xã hội rộng lớn hơn; (b) và tính chất lẫn lộn (fuzziness) giữa 4 lãnh vực gia đình, thị trường, nhà nước và XHDS, vì khó mà xếp loại một số hoạt động tập thể của công dân. CIVICUS chỉ xem là thuộc XHDS những hoạt động tập thể nhằm đạt các lợi ích chung, chứ không phải là tổ chức từ đó xuất phát ra các hoạt động.
Cũng nhằm mục tiêu đo lường hoạt động của XHDS, CIVICUS chỉ kể đến các hoạt động tập thể có tính cách công ích, chẳng hạn quản lý (governance) và phát triển (development) hơn là các họat động có tính cách kinh tế của các tổ chức vô vị lợi (nonprofit organizations).
CIVICUS đưa ra các cuộc điều tra, quan sát, phỏng vấn vv. để đo lường 25 yếu tố của 4 thành phần sau đây của XHDS:
1. Thành Phần Cơ Cấu (Structure) đánh giá tình hình sinh hoạt của các thành viên trong XHDS qua 6 yếu tố: lãnh vực tham gia của công dân, mức độ tham gia, tính đa nguyên trong nội bộ, tầm mức quốc gia hay điạ phương, mối quan hệ nội bộ, và nguồn tài chánh)
2. Thành Phần Khung Cảnh (Environment), nghiên cứu 7 yếu tố ảnh hưởng đến XHDS: khung cảnh chính trị, các quyền tự do căn bản, khung cảnh kinh tế, khung cảnh xã hội, khung cảnh luật pháp, mối quan hệ giữa Nhà Nước và XHDS, và mối quan hệ giữa khu vực tư và XHDS.
3. Thành Phần Những Giá Trị (Values) khảo sát 7 yếu tố mà XHDS theo đuổi, thực hiện và cổ vũ: dân chủ, tính cách minh bạch, sự khoan nhượng, bất bạo động, bình đẳng giới tính, xóa nghèo, và môi trường bền vững.
4. Thành Phần Ảnh Hưởng (Impact) đánh giá ảnh hưởng của XHDS đối với các chính sách công, qui trách nhiệm của nhà nước và các công ty kinh thương mại, đáp ứng các lợi ích xã hội, tăng quyền lực cho công dân và thỏa mãn nhu cầu xã hội.
Mỗi thành phần được cho điểm từ 0 đến 3. Nối các điểm trên các trục lại, người ta sẽ có một đồ biểu đo lường tình hình XHDS của một quốc gia. Dĩ nhiên, không có một quốc gia nào mà XHDS được xem là toàn hảo, tức đạt 3 điểm trên mỗi trục, và đồ biểu là một hình vuông. Trên thực tế, người ta chỉ có đồ biểu 4 cạnh không đều, được gọi là đồ biểu Xã Hội Dân Sự (civil society diamond). Theo nghiên cứu của CIVICUS năm 2007, trong 45 đồ biểu XHDS, thì đồ biểu XHDS Scotland cho thấy tình hình tốt nhất, với OS=2,2; OI=2.4; OV=2,6 và OE= 2,4. Còn đồ biểu XHDS Việt Nam cho thấy tình hình gần như là xấu nhất, với các số đo theo thứ tự này là: 1,6; 1,2; 1,7 và 1,4.
Cũng cần nói thêm, là khi nghiên cứu về XHDS tại Việt Nam, CIVICUS chia các tổ chức XHDS ra làm 4 loại chính:
- Các tổ chức cộng đồng (community-based organizations), có tính cách điạ phương, thường được sự chấp thuận hay hỗ trợ của chính quyền điạ phương, hoạt động trong lãnh vực nông ngư nghiệp, chống nghèo đói, cứu trợ vv. Một số nhận tài trợ nước ngoài và phối hợp hoạt động với các tổ chức phi chính phủ.
- Các tổ chức quần chúng (mass organizations) có lịch sử lâu đời nhất, có hệ cấp từ trung ương đến địa phương. Đứng đầu là Mặt Trận Tổ Quốc, một bộ phận chính trị mà đảng Cộng Sẳn xem là “đại diện của nhân dân” có nhiệm vụ giám sát các cơ quan chính quyền, giới thiệu các ứng cử viên cho cá cuộc bầu cử. Kế đó phải kể đến Hội Phụ Nữ, Đoàn Thanh Niên, vv. mà ngày nay hoạt động không còn mạnh như trước.
- Các tổ chức nghề nghiệp (professional associations), như các hội hồng thập tự, hội các nhà báo vv. Tuy không thuộc Nhà Nước, nhưng thành phần lãnh đạo hầu hết đều là đảng viên đảng CS. Trong những năm gần đây, có nhiều hiệp hội chuyên viên kinh tế kỹ thuật ra đời, hoạt động khá độc lập với chính quyền.
- Các tổ chức phi chính phủ (non-government organizations), chẳng hạn World Health Organization (WHO), UNICEF, American Red Cross, The Ford Foundation, Operation Smile, Alcoholics Anonymous, Church World Service, Terre des homes Foundation, Autralian Volunteers International, Landmine Survivors Network vv. Đến cuối năm 2010 có khoản 500 tổ chức phi chính phủ quốc tế (international NGO) hoạt động tại Việt Nam, một số nhỏ có văn phòng đại diện, số còn lại thì chỉ tài trợ cho các tổ chức địa phương trong các hoạt động liên hệ. Để theo dõi, và giám sát hoạt động của các tổ chức quốc tế này, Hà Nội lập ra 3 cơ quan, điều khá thú vị là cả 3 có chung một địa chỉ liên lạc!
Sang năm 2013 vừa qua, CIVICUS lại tiến hành một cuộc thăm dò mới, tìm hiểu xem vì sao các chính quyền trên thế giới không giữ được lời hứa là tạo ra khung cảnh thuận tiện để huy động và cho dân chúng tham gia vào các tổ chức XHDS. Cuộc thăm dò này được thực hiện trên 109 quốc gia, nhằm đo lường và so sánh những điều kiện ảnh hưởng đến tiềm năng mà công dân tham gia vào XHDS; và xếp hạng XHDS về quản trị (governance), khung cảnh xã hội - văn hóa (socio-cultural enviroment) và khung cảnh xã hội kinh tế (soci-economic environment). Chỉ số này được gọi là Chỉ Số Bối Cảnh Cho Phép (Enabling Environment Index: EEI), với thang điểm từ 0 đến 1. Mười quốc gia đứng đầu danh sách sách, theo thứ hạng từ trên xuống dưới là: New Zeland (0,87), Canada (0,85), Austria (0,85), Denmark (0,81), Norway (0.80), Netherlands (0,79), Switzeland (0,79), Iceland (0,79), Swedan (0,79) và Hoa Kỳ (0,79).
Việt Nam được xếp hạng 100, với chỉ số EEI là 0,37, khiến tổ chức CIVICUS phải bày tỏ mối quan tâm:
“Người ta lo ngại rằng những quốc gia như Ethiopia (hạng 8 từ dưới đếm lên) và Việt Nam (hạng 10 từ dưới đếm lên) đã từng nhận được viện trợ phát triển đáng kể, và thường được cộng đồng quốc tế khen ngợi về những thành quả kinh tế mà lại có những bối cảnh tồi tệ đến thế cho xã hội dân sự. Lý do: Hoặc là vì các chính phủ cấp viện trợ hay các cơ quan tài trợ không tìm ra được phương cách để cải thiện những điều kiện cho XHDS sinh động, hoặc là vì họ cố ý nhắm mắt làm ngơ đối với các biện pháp trấn áp.”
Trong năm vừa qua, các nhà họat động dân chủ không ngừng đòi hỏi chính quyền sớm ban hành “Luật về Hội”. Hiến Pháp mới nhất năm 2013, điều 25 qui định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.” Và “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật qui định.” Nhưng từ ấy đến nay, vẫn chưa có cái “Luật về Hội” đó. Trong khi chờ đợi, các văn kiện dưới luật xuất hiện trước đó vẫn được đem ra áp dụng, tùy theo tình thế và sự giải thích của chính quyền. Trên nguyên tắc, Sắc Lệnh số 101/SL-L003 ngày 20/5/57 do Chủ Tịch Hồ Chí Minh ban hành Luật về quyền tự do hội họp vẫn còn hiệu lực vì chưa bị bãi bỏ, do đó không thể chỉ đề cập đến các Nghị Định ban hành sau này. (Radio Free Asia ngày 20/01/20114). Vả chăng, nếu “Luật về Hội” được ban hành nay mai đi nữa, thì số phận của nó cũng sẽ không khác số phận của các Luật khác hiện hành là bao, khi mà bộ máy Nhà Nước chỉ là công cụ của đảng Cộng Sản, vốn hơn nửa thế kỷ nay đã không chút tôn trọng quyền công dân và quyền con người. Ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước độc tài chuyên chế khác, vấn đề không phải chỉ là nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Thật vậy, nếu “luật xấu” được ban hành và người thừa hành lại tuyệt đối “thượng tôn pháp luật” thì đây chỉ là trò chơi chữ nghĩa tàn bạo! Tuy nhiên, nếu “luật tốt” được ban hành với mục đích chính là để làm cây kiểng, để có chứng cớ nói chuyện với thế giới, nhưng người thừa hành lại không “thượng tôn pháp luật”, thì người dân sẽ phải tốn tiền cho luật sư, nếu không muốn nói là phải tham gia trò chơi dân chủ hiểm độc! Lý tưởng là cần có cả hai thứ cùng lúc: “luật tốt” và nguyên tắc “thượng tôn pháp luật.”
III. TRÀO LƯU CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ