PHẦN I- CHUYỆN Ở LONG THÀNH .
Nói về đời tù thì phải bắt đầu từ cái ngày 15.6.1975, xách gói ra trường Trưng Vương, Sài Gòn, trình diện cải tạo theo yêu cầu “mang theo tiền bạc, đồ dùng đủ xài trong một tháng”. Trại cải tạo Long Thành nguyên là Làng cô nhi Long Thành dưới quyền điều hành của một người tên Tư Sự, sau 30.4.1975, nghe đâu từng là một “cơ sở cách mạng”.
Ngôi làng cô nhi này từng một thời là một trung tâm từ thiện nức tiếng, ngày chủ nhật hàng tuần, người thiện tâm lên thăm viếng nườm nượp, hỗ trợ tiền bạc, thực phẩm, thuốc men. Từ tháng 6.1975, làng cô nhi biến thành Trường HTCT rồi Trại CT Long Thành. Trái với các trung tâm cải tạo tại các tỉnh do địa phương quản lý, trại CT Long Thành đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Cục trại giam Bộ Nội vụ nên mang danh số 15 NV.
Trại chứa khoảng 3 ngàn người có dây mơ rễ má với chế độ VNCH, chia thành 4 khối:
- Khối 1: viên chức các thành phần, gồm viên chức hành chánh từ cấp Phó Ty, Phó Quận đến Phó Tổng thống, các dân biểu, nghị sĩ, các thẩm phán (Chánh án, Biện lý, Phó Biện lý, Dự thẩm)
- Khối 2: đảng viên các đảng phái “phản động”: Việt Nam Quốc Dân đảng, đảng Đại Việt, đảng Dân Chủ …, từ cấp Phó Bí thư Quận-Huyện trở lên
- Khối 3: Nhân viên Phủ Đặc ủy Trung Ương Tình báo từ trung cấp trở lên
- Khối 4: Sĩ quan cảnh sát từ Thiếu tá trở lên.
4 khối này chia nhau khoảng 10-11 dãy nhà, mỗi nhà mang một số thứ tự từ 1 trở đi, có 4 gian rộng, chứa khoảng trên dưới 300 người.
Tất nhiên, khối 1 là sự tập hợp thành phần tinh túy của một chế độ vừa sụp đổ, có người từng là Chủ tịch Tối cao Pháo viện như cụ Trần Minh Tiết, có người từng là Chủ tịch Hạ viện như cụ Nguyễn Bá Lương, có người từng là Bộ trưởng Tài chánh rồi Cố vấn Tài chánh Phủ Tổng thống như cụ Lưu Văn Tính, có người tùng là Trưởng phái đoàn VNCH trong Hội đàm Ba Lê như ông Nguyễn Xuân Phong, có người là kiến trúc sư lừng danh như ông Ngô Viết Thụ …, thôi thì đủ cả!
Khối 2 có hai nhân vật nổi bật là cụ Vũ Hồng Khanh, nguyên lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng, thành viên chính phủ Liên hiệp kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từng cùng ông Hồ ký với đại diện chính quyền Pháp Sainteny bản Hiệp định sơ bộ Hạ Long 1946. Năm 1975, cụ Khanh đã 77 tuổi, có lẽ là người tù lớn tuổi nhất lúc bấy giờ.
Người thứ hai là luật sư Nguyễn Lâm Sanh, cương vị cuối cùng trong chế độ VNCH là Phó Chủ tịch Liên minh Á châu chống Cộng (chủ tịch là ông Phan Huy Quát, nguyên Thủ tướng Chính phủ), nghe kể lại từng mở văn phòng luật sư chung với ông Nguyễn Hữu Thọ, trước khi ông Thọ bỏ ra khu. Khoảng tháng 9-10.1975, có một đoàn căn cước của Bộ Nội vụ (sau là Bộ Công An) lên trại Long Thành làm hồ sơ căn cước từng người, lúc đó luật sư Thọ là Phó Chủ tịch nước. Nghe đâu lần này, một người con trai ông Thọ có tháp tùng đoàn công tác trên để thăm cụ Lâm Sanh.
Ở khối 3, có một chuyện cười ra nước mắt: thông báo trình diện tập trung cải tạo định rằng thành phần công chức từ trung cấp trở lên của Phủ Đặc ủy TUTB đều phải trình diện, mà theo chế độ công chức của chính quyền VNCH, thư ký các loại được xếp vào thành phần công chức hạng B (trung cấp). Vì thế, thành phần đi trình diện tập trung cải tạo này có hàng trăm cô thư ký đánh máy của cơ quan trung ương tình báo này. Mãi đến 6 tháng sau, có lẽ duyệt xét thấy họ chỉ là những thư ký đánh máy thông thường, “chỉ đâu đánh đó”, Cục trại giam Bộ Nội vụ đã trả tự do hàng loạt, ngày họ về đông như mở hội.
Đúng một năm sau, khoảng giữa năm 1976, việc thanh lọc các thành phần “học viên” hoàn tất, những ai xét “không có tội” được cho về, những ai “có tội” được ghi danh trong một văn bản chi tiết là quyết định 3 năm HTCT. Còn nhớ trong văn bản này ghi rõ hai chi tiết:
- Ai học tập tốt, “lập công chuộc tội”, được xét cho về trước thời hạn
- Ai không chịu học tập, còn có tư tưởng chống đối, sẽ kéo dài thêm thời gian học tập.
Như vậy, cũng có thể mặc nhiên hiểu là ai không lập công, cũng không chống đối, sẽ được về sau khi hết hạn 3 năm. Song điều này đã không xảy ra trên thực tế.
Trong những năm 1975-1978, tại trại Long Thành, có hai đợt tập trung ra Bắc mà anh em tù gọi vui với nhau là đợt “bao bố 1” và “bao bố 2”.
Danh xưng này ra đời trong hoàn cảnh như sau: một buổi sáng nọ, gần 3 ngàn trại viên được đưa lên Hội trường, nơi vẫn thường được nghe các cán bộ từ Sài Gòn lên thuyết giảng (trong đó có lần người thuyết giảng là nhà biên khảo văn học Hoài Thanh, đồng tác giả quyển Thi Nhân Việt Nam).
Nhưng buổi sáng hôm đó không có là một bài thuyết giảng nào. Đó là buổi tuyên đọc một thông báo mà khi nghe qua, cả một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng của từng người trại viên một. Lệnh rằng ai có tên trong danh sách sắp đọc thì đi nhận một chiếc bao bố, về nhà dồn hết đồ đạc riêng vào đó để trại chở đi trước.
Đó là một bất ngờ lớn nhất, không ai lường trước được và sự nhớn nhác, lo sợ bao trùm cả trại mấy ngàn người suốt một ngày liền. Cuối cùng thì số cả ngàn bao bố đựng vật dụng tùy thân và chủ nhân của chúng cũng được đưa về trại 16 NV tại Thủ Đức trước khi xuống tàu ra Bắc.
Chuyến “bao bố 2” diễn ra một thời gian khá lâu sau đó, lần này đã quen rồi, sự xúc động không còn dâng cao như trước. Sau chuyến này, còn lại tại trại Long Thành khoảng 200 người thuộc khối 1 (các khối khác đã đi hết), có lẽ chờ để đi chuyến “bao bố 3”.
Nhưng chuyến đi vét “bao bố 3” đã không xảy đến, có lẽ do ít nhất 2 lý do quan trọng:
- Khoảng năm 1978, chính quyền cần mở một trại mới tại Xuyên Mộc, trong một khu rừng trống trải, dễ dàng cho những cuộc trốn trại, mà theo đánh giá của họ, thành phần công chức trung cao (cũ) ở trại Long Thành, khi cần đưa lên đó xây dựng trại mới, ít có nguy cơ trốn nhất.
- Song đây mới là lý do chủ yếu: tháng 2.1979, Trung Quốc mở cuộc tấn công các tỉnh cực Bắc, chiến tranh diễn ra ác liệt, chính quyền phải di tản các trại cải tạo đang hoạt động ở khu vực này về một số tỉnh an toàn hơn, nhiều nhất ở Thanh Hóa. Vì phải sắp xếp lại các trại cải tạo có sẵn ở miền Bắc và giải quyết hậu quả của trận chiến khốc liệt tháng 2.1979, nên có lẽ nhờ đó mà chương trình đưa tù cải tạo từ Nam ra Bắc phải đình chỉ, khoảng 200 người dự kiến cho đợt “bao bố 3” tại Long Thành thoát được cảnh đi xa.
Khoảng cuối năm 1978, đầu 1979, hơn 40 trong số gần 200 người kể trên được đưa từ Long Thành lên Xuyên Mộc để mở một trại mới gồm 3 khu:A, B và C. Năm 1979, khi vừa hoàn thành những bước đầu, trại Xuyên Mộc đã đón tiếp 5 loại “khách” đến ở, một là các tù hình sự, hai là quân nhân chế độ mới bị án tù, ba là tù “hiện hành”, danh từ dùng để chỉ những người chống phá chính quyền mới, bị bắt sau 3.4.1975, bốn là một số văn nghệ sĩ miền Nam bị bắt khoảng năm 1976, năm là các sĩ quan cấp úy VNCH đi cải tạo, và sáu là công chức hành chánh từ Long Thành chuyển lên.
***
PHẦN II – NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG CẢNH NGỘ
Khoảng tháng 10.1979, 150 tù CT còn lại tại Long Thành được chuyển lên khu B, trại Xuyên Mộc.
Vừa bước xuống những chiếc xe khổng lồ nhuộm màu đất đỏ Bà Rịa, những con người đã sống nhiều năm ở thị thành bỗng nghe vang rền bài ca vượn hú chim kêu. Có một loài chim hót vang đều hai tiếng mà người lạc quan nghe ra là “tết về, tết về”, còn người bi quan thì lại nghe “hết về, hết về”.
Trong chuyến đi này, tù Long Thành có ít nhất ba cụ già được nhiều người biết: cụ Nguyễn Bá Lương, cựu Chủ tịch Hạ viện VNCH, cụ Nguyễn Văn Tho, cựu Trưởng khối Dân tộc Thượng Nghị Viện và cụ Cao Xuân Thiệu, một viên chức cao cấp lâu năm của chế độ cũ, cháu trực hệ của đại thần Cao Xuân Dục, Thượng thư bộ Học, Phụ chánh đại thần triều Duy Tân. (Từ “cựu” sử dụng trong trường hợp người đang được nói tới không còn giữ chức vụ trong một thời gian trước ngày 30.4.1975)
Trong số những người được chuyển đến trại trước chúng tôi, có ít nhất bốn người thuộc thành phần văn nghệ sĩ: nhà văn Duyên Anh, đội trưởng đội rau xanh số 17, nhà trưởng nhà 2 (tạm gọi theo thứ tự từ nhà 1, tính từ hàng rào trở vào), họa sĩ Đằng Giao, đội trưởng đội rau xanh số 19, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, tác giả những tập truyện nổi tiếng: Kỳ Hoa Tử, Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn… và học giả Hồ Hữu Tường.
* VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN MẠNH CÔN
Vừa nhập trại Xuyên Mộc vào buổi chiều thì buổi tối chúng tôi nhận được tin “nóng” đầu tiên về Nguyễn Mạnh Côn. Nghe kể rằng cách đó mấy ngày, trong một buổi sinh hoạt có cán bộ trại tham dự, ông Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố là thời hạn ba năm cải tạo đã hết, ông cần được đối xử như một công dân. Các tù CT trẻ thuộc thành phần hiện hành vốn ngưỡng mộ nhà văn, cũng nhao nhao lên đồng tình ủng hộ.
Cuối cùng ông Côn bị kết tội xách động và bị biệt giam. Khoảng một tuần lễ sau, có tin gia đình ông lên thăm nuôi, bị từ chối cho gặp, vì theo qui chế trại giam, người bị kỷ luật biệt giam không được hưởng những ân huệ hay quyền lợi như người tù bình thường, như không được ăn đúng khẩu phần, không được thăm nuôi …
Không nhớ bao lâu sau nữa, ông Côn được thả về nhà ở cũ (nhà 2), có lẽ do lúc đó, sức khỏe của ông đã gần suy kiệt. Buồn hơn nữa là vào một buổi trưa đi lao động về, nhiều anh em được tin sáng hôm đó, mấy cậu trật tự (là quân phạm của chế độ mới) dẫn giải nhà văn lên cán bộ trực trại (một người tên Hưng, một người tên Độ) vì bắt quả tang ông Côn lục túi đựng đồ đạc của một đồng phạm, lấy một gói mì tôm. Sự tủi nhục của một con người đến mức đó là cùng.
Nhiều bạn tù với ông không nghĩ là ông tệ đến thế. Trong đời sống trại giam, việc hai ba người góp gạo ăn chung với nhau là chuyện phổ biến, việc ông Côn lấy gói mì của một người ăn chung, hay của một người thường xuyên chia sớt cơm gạo với ông, và bị bọn trật tự muốn lập công làm nhục là điều có thể xảy ra.
Lúc bấy giờ, nhà 1, nơi tôi ở, với nhà 2, nơi ông Côn ở (nhà trưởng là Duyên Anh), chỉ cách nhau khoảng 8 mét, ngăn đôi bằng một hàng rào kẽm gai. Chiều chiều, anh em mỗi nhà tập trung ngoài khoảng sân bên hông nhà, ngồi thành hàng lối để các cán bộ trực trại đến điểm số và lùa vào nhà, khóa cửa lại.
Một buổi chiều, tôi ngồi chờ điểm số, ngó sang sân của nhà 2 qua hàng rào kẽm gai và nhìn thấy ông Côn ngồi ở đầu hàng. Ông gầy rộc như một bộ xương, thần sắc ông không còn một chút tinh anh nào, và tôi linh cảm một kết thúc đang đến rất gần với ông. Thật vậy, chỉ mấy ngày sau là ông qua đời.
Sau này, nghe đâu, sự biệt giam và cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn là một trong nhiều lý do khiến nhà văn Duyên Anh phải hứng chịu những cách hành xử thô bạo ở nước ngoài. Người ta qui một phần trách nhiệm cho anh với tư cách là nhà trưởng nơi ông Côn ở. Đây là điều mà chỉ những người sống ở nhà 2, gần gũi, thân tình với cả 2 người có liên quan mới có thể nắm được mọi tình tiết. Riêng người đang kể câu chuyện này chỉ có một hình dung rõ nét về một nhà trưởng Duyên Anh mỗi chiều thường xuyên chạy ra chạy vào thét lác anh em sớm tập họp điểm số. Phải chăng sự “năng nổ” và có phần nóng tính này là nguyên nhân gây ra những tai tiếng về anh?
Khác với Duyên Anh là đội trưởng đội Rau xanh số 17, họa sĩ Đằng Giao (Trần Duy Cát), đội trưởng đội Rau xanh số 19, là con rể nhà văn Chu Tử, sống điềm đạm hơn, ít nói hơn (có lẽ do anh không làm nhà trưởng), nên về sau này, không ai gán cho anh tai tiếng gì. Tôi chỉ có một kỷ niệm nhỏ về anh: ngày đó, ngôi nhà chúng tôi đang ở cần tu sửa gấp, chúng tôi bị phân tán đi nhiều nhà, tình cờ, tôi “lạc” vào nhà có Đằng Giao ở và cơ duyên đưa đẩy anh và tôi được một lần nằm cạnh nhau, kể chuyện cho nhau nghe gần suốt một đêm dài…
* NGUYỄN BÁ LƯƠNG
Những năm 1968-1970, khi tôi về làm ở quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang thì anh Nguyễn Hảo T. làm Trưởng Chi Bưu Điện quận. Người ta cho biết anh T. là con rể cụ Nguyễn Bá Lương, đương kim Chủ tịch Hạ Nghị Viện. Trước khi đắc cử dân biểu Quốc Hội, cụ Lương là Trưởng Ty Bưu Điện Phước Long.
Vào nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên của nền đệ nhị Cộng hòa tại miền Nam, mọi hoạt động đều hướng về mục tiêu dân chủ hóa đời sống xã hội. Dù nền dân chủ còn non trẻ, nhưng các luật gia giỏi đã xây dựng được cho miền Nam lúc bấy giờ một tập quán dân chủ theo cách tổ chức của phương Tây. Để hoạt động được hữu hiệu, tránh cảnh “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, phía Hành pháp tiến hành ráo riết các cuộc vận động hành lang để lôi kéo nhiều dân biểu, nghị sĩ nghiêng về phía thân chính quyền hầu đạt được túc số cao trong những cuộc biểu quyết các vấn đề quan trọng.
Nhân vật được Phủ Tổng thống lúc bấy giờ sử dụng cho công tác quan trọng này có hai người, một là dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, chủ nhân nhà bào chế OPV, hai là ông Nguyễn Văn Ngân, thường được báo chí gọi tắt là Phụ tá Ngân. Họ giữ cương vị Phụ tá đặc biệt tại Phủ Tổng thống, xếp ngang Bộ trưởng về mặt hệ cấp (một phụ tá nữa là ông Huỳnh Văn Trọng, phụ tá về chính trị, dính vào vụ án “bí mật đi đêm” với phía miền Bắc và Mặt trận DTGPMNVN).
Một trong những thành công của phía hành pháp VNCH lúc bấy giờ là đưa được một công chức tương đối lớn tuổi (so với đa số các dân biểu khác), hiền lành, lên làm chủ tịch Hạ viện. Đó là cụ Nguyễn Bá Lương. Có đọc kỹ các công báo Quốc Hội VNCH được ghi lại thật đầy đủ bắng phương pháp tốc ký các buổi thảo luận sôi nổi tại diễn đàn Quốc Hội mới thấy hết được sự lúng túng, và trình độ vừa phải của một ông công chức làm Chủ tịch Hạ viện, hiền lành và không có một tính chất tối thiểu nào của một chính khách. Tội nghiệp nhất là những phiên họp quan trọng, không khí, trật tự trên diễn đàn có lúc thật căng thẳng, rối rắm, mặc cụ chủ tịch gõ búa liên tiếp, các dân biểu trẻ cứ đăng đàn chỉ trích cụ, thậm chí nặng lời với cụ.
Cũng xin tạ lỗi với vong linh cụ Lương để nhắc lại ba “hỗn danh” mà giới báo chí và các dân biểu đối lập (với phía Hành pháp) đã đặt cho cụ như một sự chế nhạo, nào là “hồi dương liệt lão” (có lẽ do cụ thường xuyên tẩm bổ trong lúc điều khiển phiên họp), nào là “ông già xào mì”, “ông già Bửu Hiệp” (có lẽ do ông quen thân với bà chủ xe đò Bửu Hiệp, chạy đường Phước Long, Sài Gòn). Đó cũng là cách các giới trên phản ứng lại với “Phủ đầu rồng” (Phủ Tổng thống) trong việc hậu thuẫn cho một người có thể làm lợi cho hoạt động của phủ.
Sang nhiệm kỳ 2 của Quốc Hội VNCH, chức vụ Chủ tịch Hạ viện về tay ông Nguyễn Bá Cẩn, tốt nghiệp khóa đầu tiên trường Quốc Gia Hành Chánh (đầu thập niên 1950), từng làm Quận trưởng thời chính quyền Ngô Đình Diệm, sau đó là Phó Tỉnh trưởng tại nhiều tỉnh. Tháng 4.1975, trong chính phủ áp chót của chế độ VNCH, ông Cẩn là Thủ tướng Chính phủ, người viết bài này còn giữ nghị định được ông bổ nhiệm vào một chức vụ lãnh đạo kinh tế cấp tỉnh. Nghị định ký ngày 22.4.1975, về đến địa phương ngày 28.4, chỉ còn không đầy 2 ngày cho sự kết thúc của một chế độ.
Tháng 6.1975, cụ Nguyễn Bá Lương cũng trình diện HTCT tại trại CT Long Thành (tên ban đầu là Trường 15 NV). Tháng 9.1979, trong lần chuyển trại, khoảng 150 trại viên tại trại Long Thành được đưa lên trại Xuyên Mộc mới lập. Mỗi xe chở khoảng 30 người, chỉ có một cán bộ áp giải nên để an toàn, cứ hai người chia nhau một chiếc còng số 8, cụ Lương cùng cụ Nguyễn Văn Tho, Trưởng khối Dân tộc Thượng viện được miễn còng, nhưng phải ra ngồi sát ca-bin xe.
Đến Xuyên Mộc, cụ Lương ở chung một đội với tôi. Chúng tôi lao động rất nặng nhọc trong rừng: thu dọn cây cối ngã rạp do đội Lâm sản đi trước cưa đổ, vỡ đất rừng cứng như xi-măng để trồng khoai lang, trồng bắp, cụ Lương được phân công công việc nhẹ nhàng hơn: lượm lặt chà cây, chất đống. Lúc này, tôi mới có dịp tiếp xúc nhiều với cụ, tôi hỏi cụ về anh Nguyễn Hảo T. đã nhắc ở trên, cụ xác nhận đúng là rể cụ.
Tại Xuyên Mộc, người tù CT sau mỗi buổi lao động, được tắm sạch trên một khúc sông Ray, từ nổng cao xuống đến bờ sông phải lên xuống một đoạn dốc dứng hàng chục thước. Với chút dây mơ rễ má đó, tôi thường xuyên nắm tay cụ Lương, dìu cụ đi từng bước lên khỏi đường dốc, mà nếu đi một mình, cụ không bao giờ lên nổi.
Lần cuối cùng tôi dắt tay cụ Lương lên khỏi dốc là một chiều thứ sáu. Tại dãy nhà 1, nơi cụ và tôi cùng ở, chỗ ngủ có 2 tầng, bọn trẻ thích ở tầng cao, ban đêm được chút ánh sáng, khoảng khoát hẳn; người có tuổi và những anh trẻ ngại leo trèo thì nằm tầng dưới. Tôi nằm tầng trên gần cửa ra vào, còn cụ Tho và cụ Lương thì nằm tầng dưới, phía trong dãy nhà, hai cụ già hủ hỉ với nhau.
Sáng chủ nhật hôm đó, chỉ sau hơn một ngày kể từ buổi chiều tôi dắt tay cụ lên khỏi dốc ở sông Ray, cụ Tho thấy người bạn già vẫn chưa dậy sớm như mọi khi, bèn thò tay vào mùng cụ Lương lay bạn dậy thì cơ thể cụ đã lạnh ngắt tự bao giờ. Cụ Tho tri hô lên, người ta xúm lại thu xếp, khiêng cụ Lương đi qua chỗ tôi nằm, tôi chỉ kịp nhìn thoáng thấy cụ lần cuối.
Những người được trưng dụng ra bìa rừng để đào hố chôn cụ Lương là mấy cậu tù trật tự. Xong mọi việc, họ về báo một tin vui: sau khi chôn cụ xong, một cán bộ long trọng đọc quyết định phục hồi quyền công dân cho cụ. Tội nghiệp cụ, song cũng mừng cho cụ, với tờ quyết định phục hồi, cụ sẽ dễ dàng di chuyển qua các cửa ngục để trình diện Diêm vương!
* HỒ HỮU TƯỜNG
Với nhân vật này, nhiều sách báo, tư liệu đã viết khá đầy đủ về cuộc đời của cụ. Ở đây, chỉ xin được kể lại một vài điều mắt thấy tai nghe để bổ sung chút nào vào khối tư liệu về cụ.
Với nhân vật này, nhiều sách báo, tư liệu đã viết khá đầy đủ về cuộc đời của cụ. Ở đây, chỉ xin được kể lại một vài điều mắt thấy tai nghe để bổ sung chút nào vào khối tư liệu về cụ.
Trong thời tuổi trẻ của mình, lần đầu tiên tôi biết tên tuổi cụ Hồ Hữu Tường qua tác phẩm Phi Lạc Sang Tàu xuất bản khoảng những năm 1945-1946. Cụ nổi tiếng với tập truyện này vì qua những câu chuyện nửa hư, nửa thực có hướng tiên đoán thời cuộc thế giới, cụ đã dự đoán trúng phóc một sự kiện sẽ xảy ra 3-4 năm sau đó: đó là sự kiện lực lượng quân sự của Mao Trạch Đông chiếm lấy toàn bộ đại lục Trung Hoa vào năm 1949.
Khoảng những năm cuối thập niên 1940, đầu thập niên 1950, cụ Hồ Hữu Tường sống ở Paris, Pháp, chủ trương nhà xuất bản Đông Phong, ấn hành một số tác phẩm, trong đó có ít nhất 3 tác phẩm của cụ là: Thu Hương, Chị Tập và Gái nước Nam làm gì. Giữa thập niên 1950, cụ đã về Việt Nam, hợp tác với các lãnh tụ tổ chức Bình Xuyên, với vai trò cố vấn (theo báo chí, tài liệu đương thời). Sau khi lực lượng Bình Xuyên bị tiêu diệt, cụ cùng một số nhân sĩ bị truy tố ra tòa khoảng năm 1957 và bị kết án tử hình, giam tại trại giam Côn Đảo.
Sau ngày lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm (1.11.1963), cụ Hồ Hữu Tường cùng những bạn tù chung vụ được trả tự do. Năm 1964, cụ đăng loạt bài “Trầm tư của một người tội tử hình” trên tạp chí Bách Khoa, và cho xuất bản nhiều tác phẩm như “Phi Lạc bỡn Nga”, “Phi Lạc náo Hoa Kỳ”, “Diễm Hồng xuất giá”, “thằng Thuộc con nhà nông” ….
Năm 1967, cụ Hồ Hữu Tường bắt đầu lại cuộc đời hoạt động chính trị qua việc ứng cử dân biểu Quốc Hội. Trong thời gian vận động tuyển cử, Đài phát thanh Sài Gòn dành cho mỗi ứng cử viên một thời lượng phát biểu ngang nhau và lời phát biểu của cụ Tường là độc đáo hơn cả. Trong lúc hầu hết ứng cử viên vẽ ra những chương trình hoạt động đao to búa lớn, cụ phát biểu khá vắn tắt, đại khái chỉ nói rằng cụ nguyện làm cục đá, đồng bào có lăn vào Quốc Hội thì lăn.
Và cử tri đã “lăn” cụ vào thật. Hoạt động của cụ tại Quốc Hội cũng không thấy có gì nổi bật, ngoại trừ sự kiện vào đầu tháng 9.1969, sau khi có tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ở miền Bắc, cụ đứng giữa Hạ viện, đề nghị lập phái đoàn ra Hà Nội phúng viếng. Tất nhiên, đề nghị của cụ không được chính thức tán đồng.
Năm 1971, trong lần bầu cử Quốc Hội khóa sau (1971), cụ Hồ Hữu Tường và con trai là kỹ sư Hồ Xích Tú (được cụ dùng tên để mô tả nhân vật Xích Tử trong Phi Lạc Sang Tàu) cùng ra tái cử và ứng cử, song đều thất cử.
Về đời sống chính trị của cụ Hồ Hữu Tường, nhiều người biết cụ thuộc nhóm trí thức miền Nam theo nhóm Đệ Tứ quốc tế mà hai người nổi bật là Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu. Trong thời gian sống ở Pháp, cụ quen biết với một số nhân vật có tiếng, và sự kiện được nhiều người nhắc lại là lá thư của văn hào Albert Camus, giải Nobel văn chương 1957, gửi cho chính quyền Ngô Đình Diệm, đề nghị trả tự do cho cụ, sau bản án tử hình tuyên cho cụ vào năm 1957.
Vào những năm 1960, một trong những đòi hỏi của chính quyền miền Bắc và nhiều thành phần chống lại chính quyền VNCH là trung lập hóa miền Nam Việt Nam. Tất nhiên, đòi hỏi này bị chính quyền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa chống lại triệt để, với lập luận cho rằng trung lập hóa là bước khởi đầu của việc Cộng sản hóa toàn bộ miền Nam. Trong những dịp này, người ta nhắc nhiều đến chủ thuyết Trung lập của cụ Hồ Hữu Tường, song cũng nhiều lần cụ minh xác là thuyết của cụ là Trung lập chế và không giống với hình thức trung lập hóa miền Nam đang là đề tài sôi nổi trên chính trường. Thuyết của cụ như thế nào, người viết bài này chưa có dịp tìm hiểu kỹ.
Ở trại Xuyên Mộc, cụ Hồ Hữu Tường cùng thuộc nhóm văn nghệ sĩ bị bắt năm 1976, chung với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn Duyên Anh, họa sĩ Đằng Giao …Tôi không ở chung nhà với cụ, song vì lòng ngưỡng mộ đã lâu, mỗi trưa cùng xếp hàng ngồi trên khoảng sân rộng chờ trực trại gọi tên từng đội đi ra ngoài lao động, tôi thường dõi mắt nhìn theo cụ. Hình ảnh của cụ mà tôi vẫn còn nhớ đến bây giờ là một cụ già với vẻ hiền hậu, chất phác quen thuộc, lúc đó phảng phất nét chịu đựng của một con người đã trải qua quá nhiều thăng trầm, vào những năm cuối đời trở thành một người tù bệnh hoạn.
Những ngày ấy, mỗi trưa đi lao động, cụ mặc chiếc quần đùi màu đen, chiếc áo bà ba dài tay cũng bằng vải đen, đầu đội chiếc nón cối bằng nhựa, tay xách lủng lẳng chiếc lon guigoz mà hầu hết các người tù đều sử dụng để đựng nước uống mang theo. Mỗi lần đội của cụ được gọi tên, cụ đứng dậy bước đi bằng đôi chân đã sưng vù, tôi nhìn theo cụ mà lòng trào dâng một niềm thương cảm mênh mang.
Một trưa nọ, trong lúc anh em chờ gọi đi lao động, trại loan báo một tin bất ngờ, có hai trại viên được lệnh chuyển đến trại Hàm Tân. Và chỉ có hai người, đó là Hồ Hữu Tường và Duyên Anh.
Cái kết của đời cụ nhiều người đã rõ, một thời gian sau, cụ bị bệnh nặng, được trại Hàm Tân cho đưa về nhà, và cụ đã mất tại nhà. Dù sao cụ cũng may mắn hơn cụ Nguyễn Bá Lương và nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.
* LỜI KẾT -
Với thế hệ những người ở độ tuổi 20-40 vào thời điểm 30.4.1975, quá khứ, hiện tại và tương lai đầy rẫy những bất ngờ. Ngọn gió thời cuộc thổi họ bay tứ tán, từ những trại cải tạo đến những khu kinh tế mới, những cuộc vượt biên kinh hoàng và cuối cùng số phận đưa đẩy họ đến nhiều đất nước khác nhau. Qua thời gian, sự khác biệt về địa lý cũng tác động ít nhiều đến cách nhìn, quan điểm của họ đối với những người đồng cảnh ngộ trước đây đang ở cách xa nhau.
Điều đáng tiếc là một số người tù cải tạo sau 30.4.1975, sau khi trở về đời sống bình thường, đã trở thành tâm điểm của những cuộc phán xét và những cách hành xử “cứng rắn” nhất. Hai người nổi tiếng tiêu biểu cho trường hợp này là nhạc sĩ Vũ Thành An và nhà văn Duyên Anh. Hồi chúng tôi còn ở trại Long Thành, lúc đó còn cái tên “Trường 15 NV”, thì Vũ Thành An là Trưởng ban văn nghệ trường. Khoảng giữa năm 1976, tôi cùng vài bạn tù có hơn một tháng tập một vở kịch (có tên “Lửa Thù Sơn Mỹ”) với sự chứng kiến của anh An và hai cán bộ trại là Trưởng ban Giáo dục, trung úy Đức, và Phó ban là Thượng sĩ Mạnh. Anh An đi Bắc trong đợt “bao bố 1” nên tôi bặt tin từ đó. Nay được biết anh đã là một nhà tu tại Mỹ. Duyên Anh từ lâu đã là người thiên cổ, vợ anh vừa mới mất, ta không nhắc lại những gì anh đã trải qua và chịu đựng khi còn sống.
Đã 45 năm qua rồi, chỉ mong rằng với những ai còn tồn tại trên cõi đời này, nên nhìn những người từng cùng chia sớt nhau từng chén cơm tù với lượng bao dung, và đặt mình vào từng tình huống riêng rẽ khi cần mang nhau ra phán xét.
Cũng xin nói một sự thật là trong đời sống trại giam, một khi đã được cán bộ trại chỉ định bạn làm một “chức sắc” như đội trưởng, đội phó, nhà trưởng, nhà phó, là trong con mắt họ, bạn là người họ có thể khai thác được. Khai thác được tới mức nào là tùy ở khả năng của anh cán bộ và nhất là khả năng “xoay xở” của người tù.
Khi bạn là một tù chức sắc, bạn sẽ phải tiếp xúc thường xuyên với cán bộ trại giam để báo cáo với họ những công tác mà họ giao bạn làm và bạn cũng sẽ thường xuyên đối mặt với những câu hỏi đại loại như: tâm trạng của anh em như thế nào, có “yên tâm cải tạo” không, có anh nào tỏ ra bất mãn không, có anh nào lười lao động không , có anh nào phát ngôn bừa bãi không, vv… và vv…. Bản lãnh và thực tâm của người tù chức sắc thể hiện rõ trong những tình huống này. Nếu anh ta muốn che chở cho bạn tù, anh ta sẽ báo cáo cầm chừng, giấu đi những gì mà bạn mình có thể bị lưu ý, trừng phạt; còn nếu anh ta muốn “lập công chuộc tội” để được xét tha tù sớm, hoặc để thanh toán một “ân oán” nào đó đang chi phối quan hệ giữa anh ta với những ai đó, thì đó cũng dịp tốt nhất.
Phán xét một người tù chức sắc như thế là điều không dễ. Nó đòi hỏi sự sáng suốt, công tâm và cái nhìn đượm nét bao dung đối với những người đang ở tận cùng của đáy xã hội. Đôi khi hoàn cảnh sống cùng cực, những mơ ước quá tầm thực hiện biến họ thành những con thuyền chòng chành giữa làn sóng dữ và có thể thể ngữa nghiêng bất cứ lúc nào.
Chính sự “chòng chành” đó đã khiến nhiều con người –chức sắc cũng như không chức sắc – sa ngã … Thời đó, khái niệm “ăng-ten” (antenne) rất phổ biến, dành để chỉ những người tù sa ngã, chấp nhận làm những việc có thể có hại cho bạn đồng cảnh ngộ để mưu cầu một quyền lợi riêng tư như được giao những việc nhẹ, được đề nghị cho về sớm. Thành phần này gây nhiều xáo trộn trong tâm lý cũng như cách hành xử của anh em tù với nhau và không ít chuyện đau lòng đã xảy ra.
Nhân ngày 30 tháng 4 hàng năm, nhắc chút kỷ niệm cũ, mong rằng trong cuộc sống đầy rẫy khó khăn, mỗi con người biết yêu thương nhau hơn, đùm bọc nhau và bao dung với nhau nhiều hơn nữa.
Lê Nguyễn (Lê Văn Cẩn – ĐS 10)
29.4.2020
No comments:
Post a Comment