Nguyễn Phụng
Hương Áo* là một tập thơ đặc biệt. Đặc biệt vì đó là một tập thơ dày cộm và mỗi bài thơ mang một số thứ tự để người đọc dễ tìm hay dễ nhớ. Điều hiển nhiên là giá trị thi ca của tập thơ không tùy thuộc vào số lượng bài thơ; đó là trường hợp của T.T. Kh. và nhất là Trần Bích Tiên, tác giả này chỉ đến với người đọc qua một bài thơ độc nhất, “Nói Với Em Lớp Sáu” nhưng vẫn được nhiều người đọc miền Nam nhớ tên. Tuy vậy, với 360 trang chữ nhỏ chi chít và 151 bài thơ dài dằng dặc, Hương Áo thật là đặc biệt. Đặc biệt hơn nữa là Hương Áo không phải chỉ là một tuyển tập những bài thơ tình mà còn là một chuyện tình, một chuyện tình đẹp và buồn, bắt đầu từ quê hương miền Nam, Sài Gòn, Bến Tre, Long An và trôi giạt đến xứ Cờ Hoa này. Chuyện tình đó được sơ lược lại trong mấy trang dưới đây với vài ghi nhận về hương vị thi ca gói ghém trong câu chuyện.
*
Anh chẳng biết đàn, chẳng biết caAnh đọc nhiều thơ lắm -- thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nhất Tuấn, Nguyên Sa… -- và đọc với giọng trìu mến, thiết tha. Ý thơ và giọng đọc của anh làm thành nhịp cầu thương yêu bắc qua giòng sông ngăn cách ban đầu và và hòa vào nhịp đập thổn thức của trái tim của nàng. Nhịp thương yêu của nàng từ đó mỗi ngày một rộn ràng; rộn ràng qua ánh mắt, rộn ràng trong nụ cười; anh cảm ơn nàng và cảm ơn đời. Và từ đó họ thành đôi tình nhân, mơ ước trọn đời bên nhau. Mơ ước đó chẳng bao lâu đã thành sự thực, họ xây dưng một gia đình -- một gia đình “như cổ tích như thần tiên” với người vợ hiền “như hoa đồng cỏ nội”, một loài hoa thùy mị trang điểm cho cuộc sống -- và họ nồng thắm bên nhau “như nắng ấm đầu xuân”.
Đọc thơ thiên hạ để làm quà
Cho em những lúc em không giận
Em cũng mừng vui, cũng thiết tha.
(Liêu Trai)
Cuộc sống đầm ấm đó chấm dứt vội vàng khi Quốc Nạn 30 tháng 4 năm 1975 phủ xuống Miền Nam. Như bao nhiêu chiến sĩ và trí thức khác, anh bị đẩy vào lao tù cộng sản, chịu bao đọa đày thân xác, khổ nhục tinh thần và đớn đau vì sự ngu dốt của kẻ có quyền hành. Phần nàng, vắng anh, nàng phải phấn đấu với cảnh áp bức và nghèo đói để nuôi con và lặn lội thăm anh. Trong hoàn cảnh khốn khổ đó, nàng tỏ ra là người vợ hiền, chung thủy và đảm đang.
Sự hy sinh và tình yêu thương của nàng là hy vọng và nguồn sống của anh; anh quyết sống sót, sống sót để có ngày sum họp. Sau bao nhiêu năm tủi nhục cho anh và gian khổ cho nàng, ngày sum họp đã đến. Tuy bên nàng và các con nhưng không kham nổi một chế độ cộng sản không tình người, mọi rợ, anh tìm cách đưa gia đình vượt thoát; và may mắn thay, dù bao nhiêu lần kế cận với thần chết, họ đến bến bờ miền đất tự do Hoa Kỳ.
Tại miền đất mới này anh lại phải đối đầu với nhiều thứ khó khăn khác; nhưng đã có nàng; nàng giúp anh quên đi sự đau đớn thân xác dai dẳng -- hậu quả của cực hình trong ngục tù cộng sản -- và vơi đi nỗi buồn tha hương. Những đêm nghỉ ngơi sau ngày dài làm việc mệt nhọc, nàng thì thầm bên anh, giúp anh xây “mộng ngắn” và “mộng dài” cho một cuộc sống mới. Với tình thương bao la và sự hy sinh vô bờ của nàng, chẳng bao lâu mấy giấc mộng ngắn dài đó đã thành sự thật. Họ tạo dựng một mái nhà nho nhỏ và khu vườn xinh xinh để chăm lo cho các con ăn học
Nhưng số phận anh quá long đong; hạnh phúc mới nhen nhúm đã vội cất cánh bay xa vì nàng bị bạo bệnh:
Đất khách tảo tần chưa năm nămCơn bệnh khiến nàng thành người bất lực, không thể lo cho chồng con và tự lo cho chính nàng. Anh thay nàng lo liệu mọi việc trong gia đình và cố an ủi nàng:
Mua ngôi nhà mới chưa kịp nằm
Bỗng dưng sấm chớp tan tình điệu
Bệnh ngặt giữa đường tuyết lạnh căm
(Đường Phai Nắng)
Em cực nhiều rồi, lo nhiều rồi
Cũng cần ngơi nghỉ… chỉ thế thôi
Cơm canh anh vẫn lo xong được
Con vẫn bên em vẫn nói cười
………………….
Ốm đau tình vẫn nở thành thơ!
Kể như em nghỉ tay làm bếp
Trời nắng trời mưa chuyện bất ngờ
Cơm nóng canh ngon đã sẵn chờ!
(Hương Áo)
Và đáng buồn hơn là cơn bệnh ngặt nghèo đó cướp đi tiếng nói ngọt ngào của nàng, tiếng nói đã nhiều lần làm anh phải ghen tuông vì bao nhiêu lời khen ngợi:
Giọng nói ngọt ngào ai cũng khen
Họ hàng người lạ lẫn người quen
Say mê yên lặng nghe em nói
Làm anh lo sợ làm anh ghen!
(Hương Áo)
Và từ đó anh và nàng trao đổi tâm tình với nhau bằng tiếng nói mới, tiếng nói thầm lặng. Với tiếng nói thầm lặng này anh vẫn hiểu nàng như xưa; hiểu nàng lúc nàng buồn, hiểu nàng khi nàng vui:
Im lặng nhìn nhau lòng hiểu lòng
Cần gì nói chuyện quá viễn vông
Em vui anh biết, buồn anh biết
Tuy gọi một đôi… chỉ một lòng!
(Hương Áo)
Và điều tối hậu anh muốn nàng hiểu thấu là dù nàng đau yếu, ấp úng không lời, nhưng anh vẫn may mắn vì còn có nàng; anh may mắn vì được sống bên nàng cho trọn kiếp người:
Dẫu bệnh mà em vẫn còn đây
Cho anh được sống trọn kiếp này
(Hương Áo)
Từ đó, ngoài việc thay nàng lo cho các con, đút cơm nước cho nàng, giúp nàng làm công việc mà nàng không thể tự làm, anh làm thêm một việc mới: đọc thơ cho nàng nghe.
Đọc thơ thành ra một sinh hoạt thường nhật trong gia đình, một sự trao đổi giữa hai tâm hồn, một niềm vui và một lẽ sống của anh và nàng. Với nàng, không một một cử chỉ thương yêu nào qua giọng đọc của anh mà nàng không nhìn thấy; không một âm thanh nào nàng không ghi nhận; không một khoảng yên lặng nào mà nàng không thấu hiểu, nhất là những khoảng yên lặng vì cảm xúc quá mạnh, khoảng yên lặng sấm sét của cơn giông hè trước khi trời đổ mưa. Với anh, đọc thơ cho nàng nghe là tìm về “phút ban đầu lưu luyến ấy”, là sự đền đáp ân tình của nàng và là một cố gắng để cùng nàng vui sống những tháng ngày còn lại.
Một chiều, như thường lệ, anh đọc thơ cho nàng nghe. Anh đọc bài Tương Tư của Nguyên Sa để nhắc lại tình yêu si mê của anh ngày nào đối với nàng:
Tôi đã gặp em từ bao giờ
Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya
Kể từ gió thổi trong vừng tóc
Hay lúc thu về cánh nhạn kia?
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
……….
Tôi không biết rằng lạ hay quen
Chỉ biết em mang theo nghê thường
Cho nên cặp mắt mờ hư ảo
Cả bốn chân trời chỉ có em
(Tương Tư, Nguyên Sa)
Bài thơ vừa chấm dứt bài thơ, nàng bỗng nhiên cất lên tiếng nói… Anh đã nghe lại tiếng nói của nàng… Anh khóc to lên rồi yên lặng nhìn nàng để tận hưởng niềm hạnh phúc đã mất nay mới tìm về. Niềm hạnh phúc lan rộng khắp cả nhà, tràn ra khu vườn và xâm chiếm đầu óc anh với bao nhiêu câu hỏi cần lời giải thích. Anh cảm ơn ơn trên và trầm tư nhiều đêm. Có lẽ, ngày xưa, qua ý thơ và giọng đọc của anh nàng hiểu anh, nên nói lên để đáp lại tình yêu của anh và cất giữ bài thơ vào một chỗ trang trọng nhất trong tâm tư nàng. Chiều đó, có lẽ cũng vì với mối chân tình đó và cũng vì với tần số rung động đó, giọng đọc anh đã tìm đến đúng nơi nàng chôn giữ bài thơ, bài thơ thốt lên tiếng nói tình người…
Có lẽ, có lẽ thôi, anh chỉ phỏng đoán mơ hồ, nhưng từ đó, đọc thơ cho nàng nghe là niềm hy vọng của gia đình. Một ngày không đọc thơ là một ngày bỏ qua, một ngày không nghe thơ là một ngày vô vọng; mọi việc kể từ ngày đó, dù là tiếp tục, cũng là bắt đầu. Anh cần phải bắt đầu đọc nhiều thơ, đọc nhiều để nàng nói nhiều và nói líu lo như ngày xưa:
Mưa gió cũng qua nắng đẹp lênMấy bài thơ của Xuân Diệu, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử, Nguyên Sa ngày xưa anh thì thầm bên nàng, nay anh đã đọc nhiều lần rồi; vốn liếng thơ của anh đã cạn, biết tìm đâu ra những bài thơ hợp với sở thích của nàng, gây được sự rung cảm nơi nàng? Nàng cần được săn sóc, chiều chuộng; nàng cần sự rung cảm trong tâm hồn, nàng cần được nghe thơ để tập nói và nói như ngày nào… và vì sự cần thiết đó và tình yêu thiết tha anh làm thơ:
Rồi em hết bệnh anh vẫn hên
Rồi em lại nói cười đầm ấm
Anh một bên và con một bên!
……………..
Anh muốn em đừng nghĩ viễn vông
Ngày mai nắng đẹp gót chân hồng
Em anh lành bệnh đời thêm mộng
Tay ấm bàn tay lòng ấm lòng!
(Hương Áo)
Hò hẹn hay không vẫn đợi chờ
Yêu em anh bỗng biết làm thơ
(Tình Tứ)
Vì tập tễnh làm thơ nên anh thường nghĩ ngợi về thơ. Một hôm anh chợt hiểu ra rằng thơ là tiếng nói huyền diệu, là tiếng nói đẹp nhất để anh nói với nàng. Và rồi anh đọc đâu đó rằng thơ là lối diễn tả súc tích nhất, ngắn gọn nhất, dùng nhiều biểu tượng để chuyên chở ý nghĩa và sắp xếp theo một thứ tự tuyệt hảo nhất; bởi thế, toán học thuần lý cũng là thơ -- pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas -- như Albert Einstein đã nói, vì lý luận toán hội đủ tất cả điều kiện đó. Thơ đẹp và huyền diệu quá; nhung “thơ” của anh không phải là thơ mà chỉ là những lời tâm tình của “một kẻ quê mùa, áo nâu, chân đất, đầu trần” nhưng đó là lời nói thương yêu nhất, trìu mến nhất, dịu dàng nhất anh dành riêng cho nàng.
Điều đặc biệt khác là thơ của anh chỉ đến với nàng bằng âm thanh trầm bỗng qua giọng đọc của anh. Khi viết “Eloquence is heard, poetry is overheard”, John Stuart Mill muốn nói lên rằng mỹ từ pháp, cường điệu, thậm xưng, lý lẽ… chỉ có ích cho các các lối nói hùng biện; chỉ những âm thanh giàu nhạc tính và chuyên chở tràn đầy tình cảm và hình ảnh vang vọng đến tai người nghe mới đích thực là thơ. Lời anh không hay và ý không đẹp, nhưng qua giọng đọc anh -- dù không trầm ấm -- cũng mang chút ít thơ, anh nghĩ vậy.
Vì “chẳng biết đàn, chẳng biết ca”, nên anh cố đọc thật rõ ràng, êm dịu với nhiều biến đổi từng chữ và câu thơ để mỗi âm thanh đến với nàng chuyên chở theo một hình ảnh thương yêu ngày xưa -- hình ảnh của những ngày mới quen nhau, những chiều nhớ nhung, những lần đưa đón hẹn hò tại bến xe đò Bến Tre, Long An, sân trường trường Quốc Gia Hành Chánh, giảng đường Đại Học Văn Khoa... Âm thanh của mỗi câu thơ là một nét vẽ và các nét vẽ hòa hợp lại thành một bức tranh lung linh của một thời gian và một không gian nào đó của ngày xưa thơ mộng mà nàng ấp ủ, trìu mến. Và như thế anh đọc thơ cho nàng nghe, đọc trong những đêm dài săn sóc nàng hay những lần đẩy xe lăn cho nàng đi dạo để ngắm nắng chiều, bướm trắng và màu hoa áo:
Xe lăn ngơ ngác đường phai nắng
Bướm trắng bay theo hoa áo vàng
(Đường Phai Nắng)
*
Ca ngợi tình yêu bằng thơ thì tuyệt vời vì thơ là đối tượng của tiếng nói, nhất là tiếng nói tình yêu. Và tình yêu đôi lứa của anh và nàng thật là thơ vì xây trên ân tình: hy sinh cho nhau, mang ơn nhau và giữ tình cho nhau. Nàng một thời nhan sắc khuynh thành, nhưng anh không mang ơn nàng vì “ngực ngãi môi trầm” theo kiểu Du Tử Lê, mà vì nàng là nguồn thơ của anh, lẽ sống và hy vọng của anh.
Anh làm thơ để viết tên nàng, nhưng không viết theo kiểu Paul Éluard -- viết tên người yêu trên bóng đêm huyền diệu, trên thỏi nắng chói chang của ngày dài, trên đôi cánh chim, trên chân trời…:
Sur les merveilles des nuitsAnh làm thơ để viết tên nàng ngay trong thơ anh và viết tên nàng, Luân, với nhiều cưng chìu:
Sur le pain blanc des journées
Sur les saisons fiancées
J’écris ton nom
Sur les champs sur l’ horizon
Sur les ailes des oiseaux
Et le moulin des ombres
J’écris ton nom
(J’écris ton nom, Paul Éluard)
Áo mới làm duyên để anh cưngVà anh cũng viết tên nàng với chút đùa cợt nũng nịu:
Tóc trưa vừa gội vẫn thơm lừng
Không làm cô giáo thêm tình tứ
Anh nguyện trọn đời gọi tên Luân!
(Trăm Nhớ Ngàn Thương)
Nũng nịu chút chơi để anh cưng
Đút ăn đút uống anh càng mừng
Như những ngày xưa anh mơ ước
Trọn đời bồng ẳm chị Tư Luân
(Hương Áo)
Luân Tâm là tâm của Luân -- hay tấm lòng của Luân, tấm lòng của nàng. Anh làm thơ để ca ngợi cái tâm đó, cái tâm của sự bao dung trong tình yêu, của ân nghĩa trong tình vợ chồng và của sự hy sinh cho con cái trong những ngày anh bị đày đọa trong trại tù cộng sản, trong những ngày nghèo khổ tiếp nối và những ngày khó khăn trên xứ lạ quê người. Cái tâm của Luân vời vợi bao la như cái “tâm” mà nàng Thúy Kiều của Nguyễn Du đã thấy một đêm nào trên trời cao với “nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời” (心). Anh viết “Luân Tâm” dưới mỗi bài thơ như lời tạ tình cho nàng; anh viết “Luân Tâm” dưới mỗi bài thơ gởi cho bạn bè, những người quen biết nàng, yêu mến nàng và hiểu nỗi khó khăn đau khổ mà nàng đang trải qua; anh viết “Luân Tâm” dưới bài thơ đắc ý nhất để nhờ nhà danh họa Vũ Hối chuyển thành bức thư họa tuyệt vời để làm quà cho nàng.
*
Luân Tâm làm thơ để vuốt ve cơn đau của người bệnh bị mất hết khả năng sinh hoạt bình thường và tiếng nói loài người. Người bệnh hao mòn vì cơn đau thể xác và tiếc nuối một thời đã qua, trôi giạt giữa thực tại và mộng tưởng, suy tư trong một khung cảnh cấu thành bởi nhiều mãnh vở của quá khứ và tương lai. Thơ đọc cho nàng nghe -- thơ với nhiều nhạc tính, biến điệu và hình ảnh -- là liều thuốc chữa cơn đau và ru bệnh nhân vào giấc ngủ ít mộng mị và êm đềm…
Thơ Luân Tâm là tiếng nói của tiềm thức, một tiềm thức sâu thẳm, ghi nhận đầy đủ hình ảnh và âm thanh của tất cả biến đổi vui buồn của tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương và đất nước. Khi tiềm thức khơi dậy, hình ảnh và âm thanh ghi nhận bấy lâu vượt thoát ra ngoài và đó là thơ Luân Tâm. Thơ Luân Tâm như giòng nước tuôn trào lai láng, lắm khi băng qua vài quy ước thông thường về chữ nghĩa và hình ảnh. Người đọc chắc sững sờ vì chàng si tình Luân Tâm trong tuổi đôi mươi mà còn “bú tay” như trẻ thơ; và người đọc cũng phải gắng gượng lắm mới tưởng tượng ra hình ảnh “chó điên cản đường”, “buồn trưa cỡi bò”, hay “chó già mèo trẻ” chung vui:
Sững sờ cây trả áo xanh
Trời thương biển nhớ cũng đành...bú tay!
Tình câm còn bóng hôn gầy
Em hoa chùm gửi ta dây bìm bìm
Áo quan nào cũng được khiêng
Bàng hoàng nắng rụng chó điên cản đường...
(Trả Áo Xanh)
Ngậm ngùi cắt rún chôn nhauNhưng mừng thay, Luân Tâm, dù không tránh được vài gượng gạo nho nhỏ, nhưng không đi quá xa như nhiều nhà thơ làm dáng siêu thực. Thơ anh không hề ngụ ý thuyết phục người đọc rằng ý thức đóng vai trò thứ yếu so với tiềm thức trong việc thai nghén và hoàn thành bài thơ để biện minh cho những ý thơ không hình thù, nối kết nhau vu vơ; thơ anh không chuyên chở lời phàn nàn rằng ngôn ngữ bất lực trong việc diễn đạt tiếng nói huyền ảo của tiềm thức để bênh vực cho lối dùng ý thơ và ngôn từ mới lạ nhưng tẻ nhạt, khô cứng.
Nhện con rách lưới hàng rào buồn thưa
Vàng hoa nắng bướm đời xưa
Điệu ru nước mắt buồn trưa cỡi bò
Trầu tàn cau cũng chết co
Chó già mèo trẻ giả đò chung vui
(Khô Hoa)
Hương Áo là một tập thơ nhưng lại gói gém một chuyện tình, một chuyện tình đẹp và buồn. Người đọc dù không biết gì về câu chuyện tình đó vẫn cảm nhận được vẻ đẹp cao quý của câu chuyện thoát ra từ Hương Áo. Dù không biết gì về câu chuyện tình lâm ly giữa Roméo và Juliet, người rành điệu khi nghe hòa tấu khúc Romeo and Juliet của Tschaikovsky vẫn thưởng thức được nét nhạc tuyệt vời, biến chuyển theo từng gút mở của câu chuyện. Nhận xét này là một cách nói cầu kỳ và với cường điệu nhưng diễn đạt được một điều đáng nói về Luân Tâm: Câu chuyện tình trong Hương Áo biến đổi theo vận nước và tình người và được kể bằng vần thơ mộc mạc và chân tình.
Thơ tình yêu đôi lứa thật là ý vị:
Có hai con bướm theo rình
Hôn nhau để dạy chúng mình... học hôn?
(Ca Dao)
Anh xin làm gió xuân tha thiết
Hôn trộm một lần thật ... đắm say!
(Tình Tứ)
Thơ tình mẹ đậm đà và bao la:Thơ tình quê hương rất thiết tha:
Mẹ nuôi được một con heo
Bao nhiêu nồi cám, nồi bèo sớm trưa
Mà tiền chẳng đủ để mua
Cho con áo mới lên chùa dâng hương
Quản bao dãi nắng dầm sương
Quanh nhà bầu bí mướp hương mấy giàn
Bạc hà hành hẹ dưa gang
Khế chua bưởi ngọt bên hàng xoài tơ...
(Giấc Ngủ Chưa Yên)
Nắng gắt trưa hè rộn tiếng veVà thơ thân phận người trai miền Nam sau tai họa tháng 4 năm 1975 thật là thấm thía:
Chuồn chuồn nghiêng cánh hôn bóng ghe
Ngày mai có lẽ trời mưa lớn
Đám mạ xanh màu áo mới khoe
……….
Gà gáy dâng buồn tiếng võng trưa
Con chim chích nhỏ ru bóng dừa
Lá sầu riêng rụng khô bờ giếng
Hoa cải thẩn thờ nhớ tiếng mưa
(Tình Quê)
Vui vẫn khóc, buồn vẫn cười
Bao nhiêu ngang trái tại người? tại ta?
Mất quê hương không cửa không nhà
Không tình không nghĩa hay là không không?
(Cỏ Hoang)
*
Hương Áo rất riêng tư, chỉ viết vì một người và chỉ đọc cho người ấy nghe. Hương Áo tuy không “rao bán” nhưng không sợ “người đời thóc mách xem”. Một người đọc dù khó tánh hay hay it bao dung nhưng với một chút bình tâm cũng cảm nhận ngay rằng chuyện tình Hương Áo rất đẹp, ân nghĩa, thủy chung; và Hương Áo rất hương vị, hương vị của chiếc áo đã nhốt thời gian và thương yêu của một cuộc tình say đắm.
Nguyễn Phụng
Raleigh, North Carolina
________________
(*) Hương Áo (2007) không đề giá bán. Bạn đọc có thể liên lạc với Luân Tâm tại 18504 Denhigh Circle, Olney, MD 20832 hay luantam@gmail.com.
No comments:
Post a Comment