11 October 2024

Cười Tí Tỉnh: Quyền Hưởng Dụng

Một người phụ nữ quyết định tự thưởng cho mình một món quà lớn nhân dịp sinh nhật lần thứ 70 của mình bằng cách nghỉ qua đêm trong một khách sạn rất đẹp. Khi trả phòng vào sáng hôm sau, nhân viên lễ tân đưa cho bà ta một hóa đơn giá 250 đô la.

Cô ấy yêu cầu cho biết tại sao mức phí lại cao như vậy "Tôi đồng ý rằng đây là một khách sạn đẹp, nhưng các phòng không đáng giá 250 đô la chỉ cho một đêm - thậm chí tôi không ăn sáng nữa!"

Cô nhân viên nói rằng 250 đô la là 'giá tiêu chuẩn' và bữa sáng đã được bao gồm trong đó đẻ bà tuỳ nghi.

Bà ta nhất quyết muốn nói chuyện với người quản lý. Người quản lý tới và được nhân viên lễ tân báo trước, tuyên bố: "Khách sạn này có một hồ bơi cỡ Thế vận Olympic và một trung tâm hội nghị khổng lồ luôn sẵn sàng để sử dụng."

“Nhưng tôi không sử dụng chúng.”

"Vâng những tiện nghi đó có sẵn ở đây, và bà có quyền xử dụng." Anh tiếp tục giải thích rằng người khách cũng có thể đã xem một trong những buổi trình diễn trong khách sạn mà diễn viên là những người nổi tiếng, "Chúng tôi có những nghệ sĩ giải trí bậc nhất trên thế giới biểu diễn ở đây."

"Nhưng tôi đã không đi xem bất kỳ buổi biểu diễn nào."

"Vâng, chúng tôi đã sắp xếp, và khách có thể tuỳ tiền hưởng dụng."

Quản lý có nhắc đến bất kỳ tiện ích gì, bà ta ấy vẫn trả lời: "Nhưng tôi không dùng!" và Người quản lý trả lời theo đúng bài bản của mình.

Sau vài phút đối đáp và người quản lý vẫn không hề lay chuyển, bà khách quyết định trả tiền, viết ngân phiếu và đưa cho anh. Người quản lý rất ngạc nhiên khi nhìn vào tấm ngân phiếu.

"Nhưng thưa bà, tấm ngân phiếu này này chỉ có 50 đô la thôi"

"Đúng vậy, tôi đã tính chi phí cho anh 200 đô la khi ngủ với tôi."

"Nhưng tôi có làm như vậy đâu!"

"Chà, tệ quá, tôi đã ở đây, và anh hoàn toàn có quyền tùy nghi."

!!

(Theo Quora Digest)

05 October 2024

Bệnh Lú Lẫn Alzheimer Và Nỗi Lo Sợ Của Tuổi Già


Tác giả: Bác sĩ Thú y Nguyễn Thượng Chánh 
 & Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan
 
Đây là một bài tóm lược từ một tài liệu học tập (formation continue) của công ty dược phẩm Apotex Canada gởi cho dược sĩ tại Québec.
Pharma Conseils - Volume douze / Numéro trois - Automne 2008: «Mise à jour sur la maladie d'Alzheimer»
Bài viết nầy chỉ để phổ biến kiến thức khoa học chớ không có mục đích để chẩn đoán hay chữa trị.
Mọi thắc mắc hay nghi vấn về cách chẩn đoán hay chữa trị bệnh Alzheimer, xin quý bạn hãy tham khảo trực tiếp với bác sĩ gia đình của quý bạn.
NTC & NNL
**
 
Ngày xưa ở Việt Nam, tác giả cũng đã từng gặp rất nhiều bác lớn tuổi đi chơi trong xóm nhưng lại không biết đường về nhà, hoặc có khi thì con cái đã dọn cơm ăn rồi nhưng lại trách móc là tụi nó chưa dọn cơm ăn...Thuở đó, mình cứ nghĩ rằng hễ già cả rồi thì ai cũng có thể bị lú lẫn như vậy hết, và có người bị nặng có người bị nhẹ. Chỉ đơn giản vậy thôi!
Cho đến sau ngày định cư tại Canada năm 1980, mình mới được nghe đến cái tên Alzheimer lần đầu tiên.

Đây là một căn bệnh của người già nên ít ai quan tâm đến như bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường hay ung thư, vân vân. Người Việt Nam mình dù cho sống ở đâu đi chăng nữa, cũng vẫn có thể bị vướng bệnh Alzheimer như mọi dân tộc khác trên quả địa cầu nầy...

Alzheimer: căn bệnh của thế kỷ

Alzheimer là bệnh thoái hóa hệ thần kinh (neurodegenerative), và không thể nào làm hồi phục lại được. Bệnh nhân dần dần sẽ bị mất trí nhớ, thay đổi tâm tánh cùng với sa sút trí tuệ. Bệnh do Bác Sĩ Alois Alzheimer (Đức Quốc) tìm ra vào năm 1906 sau khi giải phẫu khám nghiệm một người đàn bà lớn tuổi đã chết vì chứng sa sút trí tuệ. 

Quan sát não bộ cho thấy có sự hiện diện của rất nhiều mảng thoái hóa amyloides (neuritic plaques, plaques amyloides) nằm ở bên ngoài tế bào thần kinh chết, và những xoắn sợi thần kinh (neurofibrillary tangles, écheveaux neurofibrillaires) do protein Tau tạo ra nằm trong tế bào đó... Chính các mảng amyloides và các xoắn sợi thần kinh nầy đã làm tổn hại đến hệ thần kinh và ngăn trở sự dẫn truyền những mệnh lệnh… Dần dần đưa đến sự sa sút trí tuệ hay là sự mất trí nhớ hoặc còn được gọi là bệnh lú lẫn ở người già. 

Đây là một hội chứng phức tạp vì bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau như sự mất trí nhớ, mất khả năng phán xét hay lý luận, thay đổi nhân cách hay tâm tánh, cũng như hành động cử chỉ, v.v...

Trải qua nhiều thế kỷ, người ta vẫn thường tưởng rằng những triệu chứng kể trên là những giai đoạn bình thường trong tiến trình của sự lão hóa.

Cho mãi đến ngày nay, khoa học cho biết sự sa sút trí tuệ là hậu quả của nhiều căn bệnh khác nhau thí dụ như: đứng đầu là Alzheimer, kế đó là tai biến mạch máu não stroke, bệnh Parkinson, bệnh Huntington, bệnh Creutzfeldt-Jacob (còn gọi là bệnh bò điên), cancer não, chấn thương sọ não. Và cũng là hậu quả của sự lạm dụng rượu hay sự sử dụng một vài loại thuốc Tây, vân vân. 

Thống kê cho biết, tại Canada hiện có 300.000 người bị bệnh Alzheimer. 

Cứ 20 người tuổi trên 65 thì có một người bị bệnh Alzheimer. Theo ước đoán, vì tầng lớp người già không ngớt gia tăng thêm lên mãi, cho nên số bệnh nhân Alzheimer có thể lên đến 3 tới 4 triệu người vào năm 2031.

Hoa Kỳ hiện có 5.3 triệu bệnh nhân Alzheimer...Trong số nầy gồm có 5.1 triệu người trên 65 tuổi và 200.000 người bệnh dưới 65 tuổi.

Alzheimer không những chỉ tàn phá bệnh nhân mà thôi, mà nó còn gây ảnh hưởng nặng nề luôn đến sự sinh hoạt và cuộc sống gia đình của người thân ở chung quanh nữa. Ngoài ra, cũng phải nói đến một gánh nặng về...y-tế phí!

Tại sao có bệnh Alzheimer?

02 October 2024

Chứng Tích: tranh A.C.La




Chứng Tích 
(WAR-TORN HOUSE)

oil on canvas
24x36 inch (61x91.5 cm)
by A.C.La  Nguyễn Thế Vĩnh
*

Vài hàng về bức tranh

Thuở thơ ấu, tôi đã từng chứng kiến cảnh ngôi nhà nơi mình sinh ra và lớn lên bị đốt cháy đổ nát như thế này khi chiến tranh chống Pháp ở giai đoạn dữ dội. Một hôm tôi từ chỗ tản cư lánh nạn theo mẹ trở về thăm nhà thì thấy những căn nhà chung quanh thành tro bụi. Riêng nhà tôi vẫn đứng đó, nhưng sau đó không lâu những lọn khói nhỏ xuất hiện trên mái ngói rồi chẳng bao lâu một cột khói cuồn cuộn bốc lên và sau chót biến thành trăm nghìn lưỡi lửa chen nhau thoát lên trời cao. Tiếng khóc òa vỡ  của người mẹ tần tảo để xây dựng cơ nghiệp vẫn còn vang vọng trong tâm khảm. "Mai đây lấy chỗ nào mà ở hả con!" Câu nói ấy tôi mang theo suốt cuộc đời mình..

Trong thời gian làm việc ở một thành phố miền cao, tình cờ tôi lại khám phá ra một ngôi nhà đổ nát vì chiến tranh. Ngôi nhà nằm ở ngoại ô thành phố. Những lúc nhàn tản, tôi hay đến đó để ngắm nhìn. Tôi có nhiều cảm xúc khi nhìn ngôi nhà này vì nó là hình ảnh gợi nhớ dĩ vãng.

Chính ngôi nhà tòa tỉnh cấp để tôi tạm trú cũng là một ngôi nhà bị pháo kích trong cuộc tấn công của cộng quân trong Tết Mậu Thân. Vợ chồng chủ nhà gốc Pháp sợ hãi đã bỏ về cố quốc. Chung quanh nhà cỏ mọc tư do trên những khoảng đất chưa trải sỏi đá. Trước nhà vẫn còn lác đác nhiều bụi hoa. Một buổi sáng tinh sương tôi bất chợt có dịp ngắm nhìn một đóa marguerite nở trong đêm màu trắng đẹp lạ lùng. Đóa hoa phơi phới như không cảm thấy bơ vơ giữa bờ cỏ xanh lởm chởm. Ngôi nhà cha mẹ tôi xưa kia ở ngoài phố không có cây cỏ bao quanh như những ngôi nhà đổ nát tôi từng gặp. Nhưng dù sao chúng cũng đưa tôi trở về với kỷ niệm ấu thơ khó quên. Không biết chính dĩ vãng hay bản chất của một người thích cảnh tĩnh mịch khiến tôi hay đứng hàng giờ để ngắm những cảnh hoang vu.đổ nát như vậy....
... Đang mải mê ngắm nhìn cái vẻ đẹp hoang phế, bỗng nhiên tôi phát giác ra một cặp nai đứng xa xa ngó tôi nửa thăm dò, nửa hiếu kỳ. Chúng thật hiền từ và dễ thương. Trong cái cảnh hoang tàn một cặp thú hoang xuất hiện bỗng làm tăng thêm cảnh hoang dã. Chẳng hạn trong một khu rừng không người bỗng xuất hiện một con cọp,  lúc ấy cảnh trí trở nên hoang dại một cách đặc biệt.

Nhưng đồng thời cũng chính cặp nai ở đây lại đang mang đến cho cái cảnh cô liêu một cái gì sống động, một luồng sinh khí. Đứng một mình nơi đây vào một buổi hoàng hôn ít nhiều cũng thấy ngần ngại, sợ sệt. Một tiếng động nhẹ cũng có thể khiến giật mình. Chính cặp nai đã giúp xua đuổi cái cảm giác sợ sệt thường tình ấy. Chúng giống như những người bạn.

Văng vẳng đâu đây có tiếng ai kể lể:  "Trước đây một cặp vợ chồng đã từng làm chủ và sống trong ngôi nhà này. Người chồng là con một trong gia đình thừa hưởng gia sản cha mẹ để lại. Sau khi lập gia đình người chồng tiếp tục sống với vợ ở đấy. Ngày ngày họ theo nhau đi xuống vườn trồng trái dâu dưới sườn đồi. Dâu bán không hết, họ dùng chế biến thành mật: Mật Dâu. Họ là những người chăm chỉ, miệt mài làm việc và thật an vui với cái nghề trồng tỉa cha ông để lại". 

"Rồi chiến tranh lan tràn trên khắp đất nước, phá tan cảnh thanh bình như cuộc sống của cặp vợ chồng trẻ này . Những tiếng đại bác từ xa vang vọng về hàng đêm mỗi ngày nghe một gần. Chiến tranh bây giờ có thể xẩy ra bất cứ nơi đâu, ở ngay trong cái thành phố du lịch và  nghỉ mát này không chừng". 

"Quả nhiên đêm định mệnh đã tới. Ngôi nhà bị một trái pháo long trời lở đất và đã cướp đi hai mạng người, một cặp bài trùng đã thề hứa sống chết có nhau. Ngôi nhà kẹt giữa hai lằn đạn, làm mồi cho tàn phá".

Tiếng kể tiếp tục: "Một thời gian sau người ta thấy xuất hiện một cặp nai hay đến và quanh quẩn nơi ngôi nhà đổ nát này, có khi hai ba ngày mới bỏ đi. Chúng dẫn nhau tới khá đều đặn tuy không phải ngày nào hay tuần nào cũng có mặt".
Tiếng kể ngừng bặt để lại cho người nghe một suy nghĩ bắt buộc: Hai con nai chính là cặp vợ chồng trẻ năm xưa nay trở về để thăm chừng nơi họ đã quấn quít bên nhau trong những ngày hạnh phúc ngắn ngủi.trên dương gian....
Tôi đưa tay dụi mắt để biết rằng mình không mơ. Tôi đang đứng trước ngôi nhà hoang phế "quen thuộc". Tiếng nói thì thầm kia chính là của nàng tiên đang dẫn dắt tôi tạo một bức tranh mới để dâng tặng mẹ tôi và cặp vợ chồng trẻ nếu như họ có thật. Riêng kính tặng anh Hoàng Trọng Cang, ĐS1, cựu phó tỉnh trường Tuyên Đức, một huynh trưởng khả kính.

Qua "Chứng Tích" xin ghi lại cảm xúc về một chặng đường đã qua.

A.C.La Nguyễn Thế Vĩnh 

**

Tiếng nghẹn ngào trong cọ vẽ

Như Thương xem tranh CHỨNG TÍCH mà chạnh lòng nhớ đến ngôi nhà thân yêu ngày xưa - một chỗ ấm êm của tuổi thơ để đầy ắp kỷ niệm thuở nhỏ và một chỗ hạnh phúc của thời mới lớn để biết mộng mơ và ngắm trăng qua khung cửa sổ.

Đôi khi có những hình ảnh thường nhật mình đã vô tình không để ý rằng nó hiện hữu tận trong sâu thẳm thương yêu, mãi đến khi mình mất nó đi rồi thì lại nhớ ngẩn ngơ và cảm thấy mất mát ấy trở thành vết thương thật sự.

Một con ngõ đi về hai buổi quen thuộc, một góc tường quen, một căn phòng gần gũi bỗng dưng một hôm đổ nát và những dáng nét ấy đổi thay một cách bạo tàn !

Xót xa! Tiếc nuối! Ngậm ngùi! Để cõi lòng như hoang tàn trước Chứng Tích.

Mơ hồ trong trí nhớ và ký ức vẽ lại toàn bộ những hình ảnh xưa, không một viên gạch nào mất mát, không một bức tường vôi nào loang lổ, không một bụi cây ngọn cỏ nào điêu đứng ... thế là tâm trở về lại chốn bình an.

Dường như có tiếng nghẹn ngào trong cọ vẽ ... làm sao tìm lại được ngôi nhà xưa khi người họa sĩ đã đặt tên cho tác phẩm là CHỨNG TÍCH ? Phải chăng chỉ ngoại trừ khi nào hồn hoang của hai người trong ngôi nhà ấy tha tội cho chiến tranh ?

Út Như Thương

Mối Tình Đâu, truyện ngắn

- Nguyễn Ngọc Rao

Năm 1946, tôi là một đứa con trai lên 8 tuổi. Lúc đó tôi sống với cha mẹ tôi cùng với một chị gái và ba em trai tại một làng quê nghèo khó. Làng tôi nằm sát bên con sông Hồng [Hồng Hà] và ở cách tỉnh lỵ Nam Định [thuộc miền Bắc Việt Nam] khoảng 40 cây số. Vì hầu hết các gia đình trong làng đều theo đạo Thiên Chúa [đạo Công Giáo] nên làng tôi còn là một xứ đạo.

Hầu hết dân làng sống bằng nghề cày ruộng, trồng rau, nuôi gà vịt, hoặc nuôi tằm làm tơ. Riêng gia đình tôi chuyên về trồng ngô, khoai, sắn, chuối, và cũng có nuôi một con lợn hạch và một con trâu đực để cho thuê.

Vì dân nghèo quá nên làng chưa bao giờ có trường học. Năm bảy gia đình tương đối khá giả thì hoặc cho con trai đi học chữ nho với ông đồ nho duy nhất trong làng, hoặc cho con trai đi học chữ quốc ngữ ở một trường làng cách đó khoảng mười cấy số. 

Khi còn nhỏ, nhờ gia đình khá sung túc, bố tôi được đi học chữ nho trong 5 năm và học chữ quốc ngữ đến hết bậc tiểu học. Do đó bố tôi không gửi tôi đi học ở đâu cả mà tự lo việc “dậy vỡ lòng” cho tôi. Nhờ vậy khi lên khoảng 6 tuổi tôi đã biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ thông thạo rồi. Tôi lại cũng biết lai rai làm thơ nữa vì bố tôi rất thích làm thơ và đã sáng tác ra nhiều bài thơ. [Trên thực tế tôi không gọi bố tôi là “bố” mà là “thầy”.] Bố tôi đã dự định sẽ gửi tôi đi học trên Huyện [Quận lỵ] khi nào tôi được 9 tuổi, nghĩa là sang năm 1947 ; nhưng dự định này bị cản trở vì hoàn cảnh đã thay đổi ngay trước đó.

**
Vào khoảng giữa năm 1946, cuộc sống trầm lặng từ bao nhiêu thế hệ trong làng tôi đột nhiên bị xáo trộn hoàn toàn. Một số trai tráng trong làng bỏ nhà, bỏ công ăn việc làm đi “tham gia kháng chiến”, nghĩa là đi gia nhập vào hàng ngũ Việt Minh với mục đích đánh đuổi thực dân Pháp. Cũng vì làng tôi là một xứ đạo nên một số trai tráng đông hơn lại gia nhập Phong Trào Công Giáo Cứu Quốc do đức cha Lê Hữu Từ [giám mục địa phận Phát Diệm] khởi xướng, và họ hoạt động tự vệ chống Pháp ngay tại làng.

Bố tôi đứng đầu đội ngũ Công Giáo Cứu Quốc của làng nên phải hoạt động ngày đêm trong tổ chức đó và hoàn toàn bỏ lãng công việc làm ăn cũng như không còn thì giờ để dậy tôi học nữa.

Có một gia đình rất xa lạ đột nhiên đến cư ngụ tại làng tôi. Gia đình này gồm có hai vợ chồng và ba người con. Tôi nghe nói họ là “dân Hà Nội tản cư”, nghĩa là những người dân vùng Hà Nội đã phải bỏ chạy tới đây để tránh những cuộc đụng độ vũ trang càng ngày càng khốc liệt xảy ra giữa quân đội Việt Minh và quân đội Pháp tại Hà Nội và các vùng lân cận.

Người đàn ông trong gia đình này tên là Tâm. Chỉ ít ngày sau khi tới đây ông Tâm mở lớp dạy học cho dân trong làng. Ông cho biết ông là giáo viên tại một trường tiểu học ở ngoại ô Hà Nội. Chỉ có trẻ con khoảng dưới mười tuổi mới theo học thôi, còn những đứa khác trên mười tuổi và người lớn thì không tới học được vì phải lo làm ăn. Như vậy số học trò theo học gồm có tôi, Nhung [cô con gái của thầy giáo Tâm] và 15 đứa trẻ trai gái dưới mười tuổi. 15 đứa trẻ này được xếp chung thành một lớp vì tất cả đều còn hoàn toàn mù chữ ; Nhung và tôi thì được xếp thành một lớp riêng vì cả hai đã biết đọc, biết viết, biết làm các tính cộng trừ nhân chia thông thạo rồi.

Khi vừa tới buổi tựu trường thì người đầu tiên tôi gặp là Nhung. Có một điều kỳ lạ là Nhung và tôi truyện trò ngay với nhau một cách rất hồn nhiên, y như đã từng quen thân nhau từ lâu. Nhung cho tôi biết Nhung lên bảy tuổi, tức là thua tôi gần một tuổi rưỡi ; cũng vì thế mà từ đó trở đi tôi gọi Nhung là “Bé Nhung” hoặc đôi khi chỉ là “Bé” thôi.

Các buổi học đối với tôi là những giờ phút thích thú và làm cho Bé Nhung và tôi rất mau trở thành thân thiết gắn bó với nhau. Tôi được ngồi sát bên Bé Nhung, được ngửi mùi hương lạ thoang thoảng tỏa ra từ người Bé. Tính tình Bé rất dịu dàng, vui vẻ. Bé thông minh, lanh lợi. Đặc biệt là Bé có trí nhớ rất sắc bén : bao giờ Bé cũng học những bài thuộc lòng nhanh hơn tôi nhiều.
 
**
Ngoài những buổi học ra, tôi lại thường rủ Bé Nhung cùng đi lang thang từ sáng tới chiều ngoài các cánh đồng lúa ven làng. Tôi đã từng đi lang thang như vậy một mình rồi vì tôi có phận sự giữ con trâu nhà, hầu như hằng ngày phải dẫn nó đi ăn cỏ ngoài đồng.

Mỗi lần tới cánh đồng, tôi để con trâu ở một chỗ có cỏ rồi cùng với Bé đi mò cua, bắt ốc, hái những cuộng rau muống, rau rút, rau má mọc hoang, hái những quả táo, quả khế, qua roi không chủ... Khi buồn ngủ thì tụi tôi nằm xoài ra bên một gốc cây, ôm nhau ngủ. Khi thấy trời nóng quá thì cả hai cởi hết quần áo ra, nắm tay nhau nhảy tùm xuống một con lạch. Rồi đến mùa lúa chín thì chúng tôi cả ngày mê man bắt những con cào cào to béo đem về nhà nướng ăn.
Có một hôm cả ngày chúng tôi không kiếm được một trái cây nào để cùng nhau vui ăn như thường lệ. Tôi cảm thấy hơi buồn ; khi quay sang nhìn thì tôi thấy Bé Nhung cũng có vẻ hơi buồn, thành ra tôi lại buồn hơn. Rồi đột nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ táo bạo : ăn cắp quả na [mãng cầu] đang chín to nhất trong vườn nhà tôi ! 

Sáng hôm sau tôi lón lén hái trộm quả na đó dù biết chắc sẽ bị bố tôi quở phạt nặng nề. Đến trưa chúng tôi bẻ quả na ra ăn, và tôi có đút cho Bé Nhung ăn vài miếng. Trời ơi, na thơm ngon quá – thơm ngon như đôi má Bé Nhung vậy ! Lúc đó hai đứa chúng tôi cùng cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vô cùng !

Chiều hôm đó, khi vừa về tới nhà, tôi thấy bố tôi đang đứng chờ ở ngoài sân, tay cầm một cái roi mây khá dài. Bố tôi giận dữ hỏi ngay :
– Có phải mày ăn cắp quả na to nhất cho con Bé của mày phải không ?
Tôi không tìm cách chối, mà run run trả lời :

– Dạ, phải ạ.

Bố tôi lấy giọng rất oai nghiêm nói :

– Cái tội ăn cắp này nặng lắm ! Mày nằm xuống đây, tao cho mày ba roi để từ nay mày chừa cái tính ăn cắp nhá !

Tôi ngoan ngoãn nằm sấp mặt xuống sân gạch, hai bàn tay ấp vào gáy, rồi nhắm mắt lại, nín thở, gồng mình lên để sẵn sàng đón nhận những đòn roi vọt sắp giáng xuống hai mông. Tôi nằm giữ cái thế đó một lát mà không thấy bố tôi động tĩnh gì hay nói gì. Tôi ngẩng mặt lên nhìn thì bố tôi hơi mỉm cười và nhẹ nhàng nói :

– Thôi, tao tha cho mày lần này. Lần sau mà mày còn ăn cắp nữa thì tao sẽ quất cho mày đủ mười roi.

Nói xong, bố tôi bước ngay vào trong nhà. Trong khi đang lồm cồm đứng dậy tôi nghe thấy bố tôi nói với mẹ tôi :

– Tôi mà như cái thằng này thì chắc tôi cũng ăn cắp na cho gái.
Tôi không nghe thấy mẹ tôi nói gì mà chỉ nghe người rúc rích cười như có ý chế nhạo bố tôi.

**
Chừng vài ba tháng sau khi đội ngũ Công Giáo Cứu Quốc trong làng được thành lập thì có một nhóm bốn người đàn ông tới làng, tự mệnh danh là “cán bộ Việt Minh” đến giúp đội ngũ hoạt động trong khuôn khổ “toàn dân đoàn kết chống thực dân”. Một người trong bọn họ đeo súng lục, một người khác đeo gươm, còn hai người kia đeo mã tấu. Những người trong đội ngũ Công Giáo Cứu Quốc chỉ có khí giới là dao mổ trâu, nỏ, lao tre và gậy gỗ.

Việc đầu tiên các cán bộ Việt Minh làm là thành lập ban “Nhi Đồng Cứu Quốc” và bắt tất cả các trẻ em trong làng từ 7 tuổi tới 15 tuổi phải gia nhập ban này. Dĩ nhiên Bé Nhung và tôi hân hoan gia nhập – và có thêm cơ hội sống bên nhau !

Các cán bộ dậy cho bọn Nhi Đồng Cứu Quốc chúng tôi một số bài hát “cách mạng”. Tôi chẳng hiểu “cách mạng” là gì nên không thích những bài hát đó và sau này quên hết, chỉ trừ bài chống Pháp dưới đây :

             Ớ trẻ con ơi này : Tây nó về, Tây nó về.
             Ớ trẻ con làng ta, hãy ra mà xem, hãy ra mà xem.
             Thằng cu Tây ngốc nghếch, mũi thò lò, tai to tướng !
             Thằng cu Tây ngốc nghếch, mũi thò lò, hay quá chừng !
             Nó chỉ đi khám, hắn ta chỉ đi khám :
             Mau mau đem giấu đi kẻo nó bắt thì nguy !

Riêng bài hát ca tụng bác Hồ [Hồ Chí Minh] thì tôi cũng không thích nhưng còn nhớ lõm bõm được mấy lời sau đây :
             Bác chúng em, 
             Người cao cao,
             Mắt như sao...

Có một điều lạ là không bảo nhau mà hễ tôi thích hay không thích bài hát nào thì Bé Nhung cũng thích hay không thích bài hát đó. Điều này làm cho niềm thông cảm giữa hai đứa chúng tôi đã sâu dậm càng sâu đậm hơn.

Mấy cán bộ Việt Minh cũng mở lớp “bình dân học vụ” vào buổi tối giành riêng cho người lớn. Họ không dạy viết mà chỉ dạy đọc thôi, và bằng phương pháp cho các học viên học thuộc lòng những câu “văn vần”. Vì tò mò, tôi và Bé Nhung thỉnh thoảng kéo nhau đến tham dự những lớp học đó. Chúng tôi rất thích các câu văn vần được đem ra dạy – chẳng hạn như câu giúp học và phân biệt hai chữ i, t [tờ] :

             i tờ giống móc cả hai,
             i ngắn có chấm, tờ dài nét ngang.

hoặc câu giúp học và phân biệt các chữ o, ô, ơ :

             o tròn như quả trứng gà,
             ô thì đội mũ, ơ là có ria.
 
**
Trong suốt năm 1947, chiến tranh càng ngày càng có vẻ tiến gần tới vùng tôi ở. Số người từ miền Hà Nội và Nam Định tản cư xuống làng tôi và các làng lân cận cứ tiếp tục tăng. Tàu chiến Pháp lúc đầu chỉ đi tuần trên sông Hồng Hà khoảng hai ba tháng một lần thì sau này đã tăng lên khoảng hàng tuần và mỗi lần đều gây ra những cuộc đụng độ kinh hoàng.

Trong suốt thời gian có tàu chiến Pháp đi lên đi xuống sông Hồng thì cũng có máy bay Pháp bay qua vùng trời làng tôi. Có loại máy bay mà dân chúng gọi đùa là “máy bay bà già” vì đó là những máy bay vận tải màu trắng, bay rất cao và không có vẻ gì là nguy hiểm dọa nạt cả. Không thấy ai sợ loại máy bay này. Bé Nhung và tôi vẫn thường thích ngắm những chiếc máy bay này như là ngắm mấy chiếc diều gió vậy, mà lại còn mơ một ngày nào được bay trên đó nữa.

Ngược lại, tất cả dân chúng đều rất sợ “máy bay phóng pháo”. Đó là loại máy bay màu đen, bay rất thấp, rất nhanh, phát ra những tiếng ầm ầm như sấm sét, lại cũng có lúc bỏ bom hoặc bắn “súng liên thanh” nữa. Khi nghe thấy tiếng máy bay này thì ai cũng phải tức tốc chạy đi tìm chỗ trú ẩn.

Một hôm ở ngoài cánh đồng tôi định leo lên một cây roi để hái mấy quả. Bé Nhung đứng dưới gốc cây, tay cầm giây thừng giữ trâu. Tôi vừa leo lên cây được vài ba bước thì bất thần có một chiếc máy bay phóng pháo bay rất thấp vụt tới và phát ra mấy tràng súng liên thanh. Tiếng máy bay và tiếng súng long trời lở đất làm cho con trâu hoảng sợ lồng lên chạy trốn, lôi cả Bé theo trong thế nằm dài trên bờ cỏ vì Bé cứ nắm chắc chiếc giây thừng. Tôi vội nhảy xuống đất và chạy đuổi theo Bé trong khi miệng nói to :

– Buông thừng ra ! Buông thừng ra !

Bé vẫn không chịu buông thừng ra. Tôi cố sức chạy đuổi nhanh hơn nữa. Khi tới được Bé tôi nhảy chồm lên người Bé và cố gỡ được giây thừng ra khỏi bàn tay Bé. Con trâu được thả tự do tiếp tục chạy một quãng dài nữa rồi ngưng lại vì lúc đó máy bay đã biến đi rồi. Tôi bực tức vặn hỏi Bé :

– Tại sao Bé không chịu nghe anh mà buông thừng ngay ra ?
– Em không muốn để con trâu chạy đi mất tích.

Bé Nhung trả lời một cách rất bình tĩnh, coi như đã không có truyện gì quan trọng xảy ra. Tôi giật mình ngạc nhiên vì không ngờ Bé là con gái mà lại có được thái độ và hành động gan lì như vậy. Tôi thầm phục Bé sát đất !
**
Sáng sớm một ngày cuối đông năm 1947, chiến tranh đột nhiên phát động rất gần làng tôi. Súng lớn súng nhỏ thi nhau nổ rền rền. Thỉnh thoảng lại có một quả đại bác rơi nổ ầm ĩ ngay trong làng. Máy bay phóng pháo lượn đi lượn lại trên vòm trời, phát ra những tiếng rợn người như sấm sét, rồi lâu lâu lại nhả ra những tràng súng liên thanh nghe mà thất đảm. Mọi người trong gia đình tôi đều nhảy xuống chuồng lợn đào sâu trong nhà để trú ẩn. Rồi tất cả cùng nhau rì rầm đọc kinh “ăn năn tội” và kinh “phó linh hồn cho Chúa” vì thấy cái chết đã kề cận.

Chúng tôi ngồi co ro trong chuồng lợn hôi hám bẩn thỉu và luôn miệng đọc kinh như vậy cả mấy tiềng đồng hồ liền. Mãi đến khoảng 10 giờ sáng thì không thấy còn máy bay nữa, và các tiếng súng cũng chỉ còn nổ lẹt đẹt rời rạc thôi. Mọi người lồm cồm leo ra khỏi chuồng lợn. Tôi vội vã cắm đầu chạy sang nhà Bé Nhung, mặc cho bố tôi thét gào bắt tôi phải quay trở lại ngay.

Tới nhà Bé Nhung tôi thấy có một nhóm người đang đứng quây quần trong bếp, mẹ Nhung đang khóc bù lu bù loa. Không thấy bóng dáng Bé đâu, tôi nghi ngay là đã có truyện gì không hay xảy ra cho Bé. Tôi vội lách qua nhóm người và tiến tới để xem sự thể ra sao. Tôi thấy Bé đang nằm ngửa im lìm trên mặt đất, đôi mắt nhắm lại, và có một vết thương rất lớn ở bụng. Tôi nằm vật xuống, vòng tay ôm lấy Bé và gọi Bé qua hai giòng nước mắt dàn dụa :

– Bé ! Bé ! Bé Nhung !

Nghe tôi gọi, Bé từ từ mở mắt ra và miệng phều phào như muốn nói với tôi điều gì. Tôi ghé tai vào miệng Bé thì nghe được Bé nói rất nhẹ :

– Anh... Anh...Anh...

Bé chỉ nói được chừng đó rồi im luôn và từ từ khép đôi mắt lại. Tôi hoảng hốt ôm lay người Bé và gọi to tên Bé, nhưng Bé không phản ứng gì nữa. Ông Tâm tới gỡ vòng tay tôi ra khỏi Bé rồi kéo tôi đứng dậy và nói :

– Con Nhung nó bị trúng một mảnh đạn đại bác. Thôi thì nó chết cũng là thánh ý Chúa. Anh nhớ cầu nguyện cho linh hồn nó nhá !

Nói xong, ông Tâm đi lấy một chiếc chiếu cói rồi cuộn xác Bé Nhung vào đó và lấy giây thừng thắt buộc lại. Xong rồi ông vác xác Bé lên vai đem đi chôn ở ngoài ruộng lúa ven làng, theo sau là hai ba người đàn ông cẩm cuốc và xẻng để đào huyệt. Còn những người khác thì cuống cuồng thu xếp để tản cư chạy loạn vì các tiếng súng lớn nhỏ lại rền vang. Tôi vội vã chạy theo xác Bé nhưng bố tôi đã kịp thời tới nơi, nắm chặt lấy tay tôi và lôi tôi về nhà, vừa chạy vừa nói :

– Mày phải về ngay để đi tản cư lập tức !

**
Thế là tôi đã bất thần phải vĩnh biệt Bé Nhung kể từ ngày bom đạn dội xuống làng tôi. Cho tới nay đã gần 80 năm trời trôi qua mà cái chết của Bé vẫn còn là một vết thương to lớn không thể lành được trong lòng tôi. Hình bóng Bé Nhung yêu quý vẫn còn in đậm trong tâm khảm tôi. 

Niềm tôi yêu mến và tiếc thương Bé không lúc nào nguôi. Có nhiều đêm tôi giật mình thức giấc thấy tim mình đang đập thình thình như trống ngũ liên và nước mắt đang chảy dàn dụa trên má; phải mấy giây đồng hồ sau tôi mới nhận ra mình vừa nằm mơ gặp lại Bé Nhung...

Cớ sao mối tình đầu của tôi lại thê thảm đến thế này ? Trời ơi, Đất hỡi, thấu cho chăng ?!

Nguyễn Ngọc Rao

25 September 2024

20 September 2024

Trận Chiến Cuối Cùng

Nguyễn Tiến Cảnh

Sắp đến ngày tổng tuyển cử tháng 11 sắp tới, chúng ta những người Mỹ gốc Việt là công dân Hoa Kỳ dù thuôc đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa đều có bổn phận phải tích cực tham gia cuộc bầu cử. Nhưng bầu cho Dân Chủ hay Cộng Hòa là do ở quyết định thông minh và chính xác của mỗi người. Không thể nói tôi chẳng bầu cho bên nào cả. Như vậy là ba phải không có lập trường, vô tình bạn đã làm hại đảng của mình là phía mình ưa thích.

Người viết không tuyên truyền để bỏ phiếu cho Cộng Hòa hay Dân Chủ, nhưng chỉ đưa ra những nhận xét dựa vào các sự kiện đã xẩy ra và đã thấy một cách trung thực với ý nghĩ thật công bằng và trong sáng hết sức có thể. Dùng tai để nghe, dùng mắt để nhìn, nghe trước nghe sau, nhìn trước ngó sau và nhìn chung quanh, cả phe mình và phe đối nghịch, rồi lấy trí khôn để phán đoán và nhận định tạo thành một tri thức của riêng mình để làm việc và ứng sử vào cuộc sống. Là người Việt Nam đã chạy trốn cộng sản độc tài đi tìm tự do ở những nước ngoài Việt Nam và trên đất Hoa Kỳ mà giờ này lại đi theo đảng Dân Chủ xã hội chủ nghĩa Cộng Sản độc tài thì quả là vô lý khó hiểu.

Đề tài của bài viết là TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG / FINAL BATTLE là đầu đề  cuốn sách của giáo sư David Horowitz xuất bản vào tháng 1 năm 2023. Đây là sách bán chạy nhất, best seller được nhiều người ưa chuộng và ca ngợi nhiều nhất. Xin kể một ít phê bình tiêu biểu của những nhân vật danh tiếng.

“Người bạn vĩ đại nhất của tôi, tác giả sách ‘Dark Agenda,’ là David Horowitz vừa mới cho ra cuốn sách mới tựa đề ‘Final Battle: Cuộc bầu cử sắp tới có thể là cuộc bầu cử cuối cùng.’ Sách thật tuyệt vời, mọi người hãy có cuốn sách này / My great friend and author of 'Dark Agenda,' David Horowitz, is out with a new book, 'Final Battle: The Next Election Could Be the Last.' It is great! Get your copy." - TT Donald J. Trump.

“Tôi không thể có một người bạn nào thân thiết hơn là Horowitz... David Horowitz đã nói tất cả mọi sự thật về nhiều thập niên theo cách mà hầu như chẳng ai chịu nói ra / I could not be a bigger fan…David Horowitz has been telling the truth for decades, in a way that almost nobody else has been willing to” -Pete Hegseth.

“Đây là một cuốn sách cứu nước Mỹ / Nothing less than a handbook for the salvation of the United States of America.” -Dennis Prager

“Sách lột mặt nạ tất cả những vi phạm trắng trợn mà chính quyền Biden và phe tả dân chủ đã vi phạm / Exposes the outrages perpetrated by the Biden Administration and the Democratic Left.” -  Dinesh D’souza

“Báo động về một tương lai xấu nếu cục diện hiện tại không lật ngược lại được thế cờ. Đừng bỏ qua cuốn sách này / An ominous warning about what the future may hold if the present course is not reversed. Don’t miss it.” -Peter Schweizer

Đảng Dân Chủ đang cương quyết kiên trì chiến đấu hầu nắm thế thượng phong để biến Hoa Kỳ thành ‘một quốc gia độc đảng’ do mình lãnh đạo.

Tại sao gọi là trận chiến cuối cùng?  Sách lột trần những đe dọa thực sự mà đảng Dân Chủ đã áp đặt để đè bẹp tự do con người về mọi mặt. Sự bùng phát chỗi dậy của chủ nghĩa xã hội và thuyết chủng tộc nguy hiểm cấp tính liên hợp với nhau hầu đe dọa và khuynh đảo cử tri đoàn và thượng viện là cơ quan tư pháp độc lập và là hệ thống tuyển cử toàn vẹn và trong sạch thì lại đang bị đe dọa hầu có thể xóa bỏ mọi truyền thống tốt đẹp của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ từ ngày lập quốc đến giờ là đoàn kết mọi công dân lại với nhau -làm trọng tâm của nền dân chủ.

Các cuộc tấn công vào những phong tục rất tinh tuyền này của Mỹ mà các tổ phụ lập quốc Hoa Kỳ đã tạo ra đã làm suy yếu và phá bỏ giải pháp lưỡng đảng hiện tại để biến thành một vấn đề chung như những dịch bệnh làm rối loạn sinh hoạt dân sự .  Người dân Hoa Kỳ bây giờ dùng những ngôn từ khác nhau và đối nghịch về chính trị để đả kích chửi bới nhau. Hai đảng dân chủ và cộng hòa hoàn toàn phân cực đến độ chính cách sống của người dân Mỹ cũng đang rơi vào tình trạng tuột dốc lâm nguy đáng sợ.

Giáo sư David Horowitz, tác giả có sách bán chạy nhất của New York Times trong một bài viết rất mạnh đã lột trần những mục đích ác độc của Đảng Dân Chủ, qua các điểm chính của những chiến lược của họ như sau:

  -Công lý hai chiều: Antifa và BLM vs Vụ Jan 6
  -Công dân là đồ bỏ: không cần phải là công dân cũng có quyền bầu cử, để ăn tiền trợ cấp xã hội và hưởng phúc lợi về y tế sức khỏe.
  -“Hủy hoại văn hóa và cấu kết với nhau” để phỉ báng tiếng nói bảo thủ.

Tình trạng đất nước và xã hội đang lúc suy thoái gặp cơn nguy khốn như vậy chúng ta chỉ ngồi nhìn  như khách qua đường hay sao?! Có ngạc nhiên ngỡ ngàng khi mà tình trạng hiện tại xụp đổ, nếu nhận ra thì cũng quá muộn. Mọi người ai cũng biết nó sẽ xụp đổ thế nào, ghê gớm làm sao!...!”

Hãy đọc Trận Chiến Cuối Cùng, Final Battle trước khi không quá muộn.

Fleming Island, Florida
Sept 17, 2024
NTC

18 September 2024

Giả và Thật, để suy gầm

Có một cụ ông dùng rất nhiều tiền tiết kiệm của mình để sưu tầm đồ cổ. Vợ của ông qua đời sớm, để lại cho ông 3 đứa con, nhưng con cái ông lớn lên đều ra nước ngoài định cư sinh sống. Còn ông thì có một cuộc sống của riêng mình. 

Con cái không bên cạnh, may thay lúc già, ông có một người học trò theo ông học sưu tầm đồ cổ, cận kề bên ông. Nhiều người cho rằng: “Nhìn cậu thanh niên này, công việc của bản thân không làm, mà ngày nào cũng bên cạnh ông cụ, nhìn có vẻ rất hiếu thuận”.  Hẳn rằng, thanh niên này chỉ vì tiền và khối gia sản của ông. 

Con cái ông cũng thường xuyên gọi điện từ nước ngoài về, nhắc nhở ông phải cẩn thận, đừng để thanh niên kia lừa.

- Ông nói : “Ba đương nhiên biết mà. Ba cũng đâu có ngốc”. 

Cuối cùng vào ngày ông qua đời, khi luật sư tuyên bố di chúc, ba người con từ nước ngoài về, người học trò cũng đến. 

Sau khi di chúc tuyên phán, mặt ba người con đều biến sắc, VÌ HẦU NHƯ TOÀN BỘ TÀI SẢN ÔNG ĐỀU ĐỂ LẠI CHO CẬU HỌC TRÒ CỦA MÌNH. 

Trong di chúc ông viết rằng: 

“Tôi biết rằng có thể người học trò này vì tham tiền của tôi, nhưng trong lúc già yếu, thật sự chỉ có cậu ấy bên cạnh tôi.  Cứ cho là con cái tôi yêu thương tôi thật lòng, nhưng cũng chỉ là nói trên miệng, đặt trong lòng, lại không đến chăm tôi, như thế yêu thật lại thành giả. 

Ngược lại, coi như người học trò này của tôi đối với tôi đều là giả, giả dối đến mười mấy năm, nhưng một câu oán trách cũng không có, luôn kề cận cùng tôi và cuối cùng giả lại như thật" . . .

Võ Thanh Phương sưu tầm

16 September 2024

Bắt Đầu Từ Đó...

Trần Trung Đạo

Bắt đầu từ đó. 

Từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam Ranh, Nha Trang sau những ngày tháng Tư, mùa bão lửa, năm 1975. Mẹ lạc cha. Vợ xa chồng. Anh mất em. Những đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường phố. Những chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Đói khát. Lo âu. Bà mẹ quỳ lạy những tên hải tặc để xin tha cho đứa con gái chỉ mười lăm tuổi ốm o bịnh hoạn của bà. Nước mắt và những lời van xin của mẹ không lay động tâm hồn của những con người không còn một chút lương tri. Tiếng niệm Phật. Lời cầu kinh. Không ai nghe. Không có Chúa và không có Phật. Ở đó, trên bãi san hô của đảo Koh Kra, phía Nam vịnh Thái Lan, chỉ có những thân thể trần truồng, máu me nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh và giọng cười man rợ của bầy ác điểu Thái Lan.

Bắt đầu từ đó. 

Từ trại tỵ nạn Camp Pendleton, Palawan, Laem Sing, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, Whitehead, Phanat Nikhom, Galang. Những địa danh xa lạ đã trở nên thân thiết. Ngửa tay cầm chén gạo tình người. Thank you, merci, danke, gracias. Tuổi hai mươi, ba mươi, và ngay cả năm mươi, bảy mươi mới bắt đầu tập nói. Những câu tiếng Anh bập bẹ, những dòng chữ Pháp, Đức, Tây Ban Nha ngập ngừng.

Bắt đầu từ đó. 

Từ những buổi chiều âm thầm nhìn qua bên kia biển, anh tự hỏi, phải chăng chấm đen cuối chân trời đó là quê hương. Cành hoa hồng được thả trôi trên biển để nhớ nhau trong ngày cưới. Con búp-bê được nhẹ nhàng đặt trên mặt nước xanh trong ngày sinh nhật của con. Vợ đã chết và con đã chết trong một lần vượt biển sau anh.

Bắt đầu từ đó. 

Từ đêm Giao Thừa đầu tiên. Không bánh chưng xanh. Không rượu nồng pháo nổ. Không một lời chúc tụng của bà con. Chỉ có tiếng hú của cơn bão tuyết dội vào khung cửa kính. Hai ngọn nến nhỏ, một bó hương thơm và những giọt nước mắt nhỏ xuống trong đêm Giao Thừa cô độc. Em bé mười ba tuổi lần đầu tiên tập cúng mẹ mình. Cúng về đâu và lạy về đâu. Trong lòng Biển Đông sâu thẳm, mẹ có còn nghe được tiếng khóc của đứa con đang lạc loài trên đất lạ.

Bắt đầu từ đó. 

Từ hành lang phi trường Tân Sơn Nhất, người lính già HO gạt nước mắt chào tạm biệt thân nhân, tạm biệt quê hương, nơi một lần máu mình đã đổ. Ra đi, mang theo những tên tuổi, những địa danh đã hằn sâu trong ký ức. Ra đi, để lại sau lưng tuổi thanh niên trong ngục tù xiềng xích. Ra đi, để lại bao đồng đội, chiến hữu, anh em đang tiếp tục đếm những ngày dài bất hạnh trên quê hương.

Bắt đầu từ đó. 

Tiếng guốc không còn khua trên đường phố. Hàng cây sao đã héo. Hàng me xanh đã tàn. Hàng phượng vĩ không còn đỏ thắm. Những trụ đèn khuya trước cổng trường không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và của đời người đã đóng. Và cả một quê hương thân yêu cũng chừng như đã chết.
Ra đi. 
Ra đi.

Và từ đó chúng ta đi. Cảnh đời tuy có khác nhau. Tuổi tác tuy có khác nhau. Thời điểm tuy có khác nhau. Nhưng chúng ta, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, cùng mang một nỗi đau chung: nỗi đau Việt Nam.

Nỗi đau lớn dần theo mỗi ngày biệt xứ. Nước mắt của những bà mẹ Việt Nam khắp ba miền góp lại chắc đã nhiều hơn nước sông Hồng. Xương trắng của cha anh nếu chất lại chắc đã dài và cao hơn cả dãy Trường Sơn.

Hôm nay, cơn bão lửa dù chưa qua hết nhưng với ý chí vươn lên, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, thay vì ngồi thở ngắn than dài cho số phận, đã dìu nhau đứng dậy, dìu nhau đi lên, sống một cuộc sống tích cực, làm những công việc tích cực cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước. Nhờ thế, sau đêm tối trời của vận nước và đời mình, đa số chúng ta đã tìm được một cành mai hy vọng ở xứ người. Để từ đó làm điểm khởi hành lên đường đi dựng lại Mùa Xuân Dân Tộc.

Hôm nay, đau buồn vẫn chưa nguôi nhưng sức sống không phải vì thế mà ngừng lại. Những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã lớn. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Ai đã dạy em nên người? Cha mẹ. Vâng. Thầy cô. Vâng. Nhưng còn hơn thế nữa, còn từ trong dòng máu Việt Nam.

Hôm nay, những con nước nhỏ dưới chân cầu đã trôi ra biển rộng. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước từ sông Hồng, sông Hương, sông Ba, Thu Bồn, Trà Khúc, Cửu Long, Vàm Cỏ, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Việt thân yêu đã nhiều năm đại hạn.

Tất cả, một ngày không xa sẽ rơi vào quên lãng, sẽ tan biến đi theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh. Không quan trọng. Điều quan trọng, trong giờ phút còn có mặt, còn được góp phần, xin làm một que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi chúng ta, đừng tắt. 

Cám ơn.

Trần Trung Đạo

Cười Tí Tỉnh: Quyền Hưởng Dụng

Một người phụ nữ quyết định tự thưởng cho mình một món quà lớn nhân dịp sinh nhật lần thứ 70 của mình bằng cách nghỉ qua đêm trong một khách...