23 September 2025

Nữ quân nhân Bắc Triều Tiên, cười tí tỉnh



Cần gì phải nhấc cao giò đến như thế mới phơi bày được quyền lực? (Hình 'lụm' trên internet)

16 September 2025

Cười tí tỉnh: Vợ trẻ

Một tỷ phú 60 tuổi cưới một cô gái 25 tuổi nóng bỏng...

Sau tuần trăng mật, họ tổ chức tiệc mừng đám cưới...

Sau vài ly rượu, bạn bè của tỷ phú muốn biết bí quyết làm thế nào ông ta lấy được một cô nàng 25 tuổi ngồn ngộn...

- "Đơn giản thôi" tỷ phú khoe khoang... "Tôi khai man tuổi thật"

"Ừa, nhưng ngay cả với một anh chàng 40/45 tuổi... cô ấy vẫn rất quyến rũ, mà anh đã nói anh bao nhiêu tuổi vậy?" Một người bạn hỏi.

Với nụ cười trên môi, tỷ phú đáp:
- "85 tuổi"

10 September 2025

PLANK, tập vùng bụng cho thon chắc, tránh nhiều thứ bệnh

 Với những người đã được huấn luyện tại các quân trường khi xưa thì đây chỉ là "hít đất vào thế" hay "thế bắc cầu" (qua hai thành giường), những hình phạt giúp tăng thể lực mà thôi. Vấn đề là bây giờ có còn kiên trì tập hay không?


Bây giờ người ta chế ra chữ "PLANK", nghe lạ hoắc nhưng chẳng có gì mới, nhưng hiệu quả việc luyện tập thì hẳn vẫn rất tốt. . . 


Plank là động tác tốt nhất làm giảm mỡ bụng giúp bạn tránh được rất nhiều nguy cơ cho sức khỏe. Đó cũng là lý do vì sao cả thế giới này cứ "long sòng sọc" lên với bài tập này.

Plank giúp giảm mỡ bụng - nguồn cơn của nhiều bệnh nguy hiểm
Một vòng eo quá khổ không giết chết bạn ngay lập tức, song lại mang đến 10 nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn mà chỉ đọc thôi cũng thấy giật mình.
Vòng eo quá khổ không chỉ chứa chất béo, mà còn là loại chất béo ở dạng xấu nhất. Nó được gọi là mỡ nội tạng và mang lại những nguy cơ mắc bệnh cao. Vòng eo phì nộn cảnh báo hội chứng chuyển hóa, tạo tiền đề cho các bệnh như tim mạch và nhồi máu cơ tim, tiền tiểu đường và bệnh tiểu đường mãn tính, thậm chí dẫn đến ung thư. Vòng eo quá khổ cũng là một dấu hiệu cho thấy bạn đang mắc hội chứng chuyển hóa. Ngoài ra sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú, tăng nguy cơ tổng thể tử vong. Đặc biệt, nam giới mắc bệnh bụng bia sẽ có thể dẫn đến rối loạn chức năng cương dương, ảnh hưởng đến sinh sản, làm tăng trục trặc nội tiết tố, tăng nguy cơ bị đột quỵ, bị chứng mất trí và Alzheimer. Plank chính là động tác tốt nhất làm giảm tình trạng mỡ bụng, khi vòng eo săn chắc sẽ giúp bạn nâng cao tuổi thọ. Đó cũng là lý do vì sao cả thế giới này cứ "long sòng sọc" lên với bài tập này. 
Một cơ thể săn chắc từ đầu đến chân, vòng eo thon gọn với phần cơ bụng "phẳng lì" không còn mỡ thừa có lẽ là niềm mơ ước không của riêng ai.

Để đạt được điều đó, nhất định bạn phải đến một phòng tập Gym hoặc tham gia tập luyện chăm chỉ một môn thể thao nào đó.

Đáng tiếc, đa số "dân công sở" lại khó có thể thực hiện được điều này, công việc phải ngồi một chỗ từ sáng tới chiều sẽ không còn thời gian để đến phòng Gym nữa.

Tuy nhiên gần đây, tập Plank trong phòng Gym đã được "xã hội hóa" một cách vô cùng nhanh chóng. Từ trường học đến công sở, công viên, đường phố, phòng ngủ, vỉa hè... đâu đâu cũng có người tập một cách rầm rộ và vui vẻ.

Thậm chí, Trường Cao đẳng Cộng đồng Greenfield (Mỹ) đã tổ chức định kỳ cuộc thi Plank từng khoa và trong toàn trường, người chiến thắng đã đạt kỷ lục làm ngạc nhiên 9 phút 24 giây.

Nhưng thành tích đó mới chỉ được xem là màn khởi động của cuộc thi lập kỷ lục về Plank được tổ chức tại Bắc Kinh (TQ) trong tháng năm vừa qua.

Người vô địch là anh Mao Vệ Đông, một lính đặc nhiệm đã có thể làm plank liên tục kéo dài trong hơn 8 tiếng, sau khi chiến thắng đối thủ, anh còn chống đẩy thêm để thể hiện sức mạnh vô song của mình.

Plank là động tác tốt nhất cho vùng cơ bụng.

Plank còn được gọi là động tác khúc gỗ, vì chỉ cần giữ cơ thể "thẳng đơ" là đủ.

Động tác Plank không quá khó để thực hiện. Nằm sấp, chống hai khuỷu tay vuông góc ngay dưới vai.
Nhón hai mũi chân lên, nâng thân người lên và giữ lưng, hông, cổ thành một đường thẳng.

Giữ tư thế này từ 20 giây đến hết khả năng của bạn (1 tháng có thể tập luyện và tăng lên mức 300 giây), siết chặt phần cơ bụng và duy trì nhịp thở đều.

Plank là bài tập được xem là tốt nhất cho bụng vì nó hoạt động trên các cơ cốt lõi như cơ bụng thẳng và cơ sườn ngang.

Bài tập này sẽ giúp làm săn và hình thành các cơ bắp quanh dạ dày bằng cách làm cho chúng dài ra và săn chắc nhanh chóng.

Bài tập plank giúp tăng tính linh hoạt trong các nhóm cơ khắp cơ thể. Cơ vai và cơ xương cổ cũng được trải dài hơn. 

Vùng cơ đùi và các gân kheo được xiết chặt để thành săn chắc. Bài tập plank làm căng bàn chân, ngón chân để hỗ trợ dàn đều trọng lượng cơ thể.

Với những nhân viên văn phòng phải ngồi nhiều trước máy tính, tư thế ngồi ít nhiều bị sai lệch và dễ mắc bệnh đau lưng, thoái hóa xương. 
Khi thực hiện động tác Plank, từ các bộ phận như lưng, chân, cổ đều đưa vào tư thế thẳng.

Người tập sẽ cải thiện các cơ bắp cốt lõi, tăng sự hỗ trợ cho cột sống và hông, duy trì tư thế đúng, giảm nguy cơ mắc các bệnh do sai tư thế, giảm đau lưng dưới.

Plank là động tác cơ bản, không cần dụng cụ và bạn có thể thực hiện ở bất kỳ đâu. Chỉ cần một không gian vừa phải, một mặt phẳng là bạn có thể tập.

Plank nở rộ trong các công sở vì tính đơn giản và hiệu quả mang lại thấy rõ chỉ sau 30 ngày tập. 
Hãy nhìn ngắm những hình ảnh hài hước vui nhộn khi tập plank trên toàn thế giới, để có động lực rằng bạn đã nên tập ngay tại công sở của mình bây giờ hay chưa.



Những lỗi thường gặp khi tập plank:

- Đẩy mông lên quá cao. Lưu ý rằng, cổ, lưng, và chân tạo thành đường thẳng, bạn hãy cố gắng giữ mông ở mức cho phép.
- Võng lưng khi plank, nên gồng chắc cơ bụng để lực tác động vào cơ bụng, không làm bạn bị đau lưng.
- Đặt hai tay quá gần nhau. Khi đó tác động lên cơ bả vai sẽ sai tác dụng.
- Nín thở. Nhiều người cố chú ý vào tư thế đúng và giữ lâu mà quên mất việc hít thở. Hãy hít thở đều và tập trung.
- Điều này không thấy bài nào đề cập nhưng thông thường không nên tập khi mới dùng bữa. 

(TTR tổng lược và viết lại) 

04 September 2025

Những Ngộ Nhận Phổ Biến Về Nhân Vật Lưu Vĩnh Phúc Trong Lịch Sử Thời Kháng Pháp Của Việt Nam

LÊ NGUYỄN

Trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do tác động của sách báo được thực dân Pháp phổ biến mà không ít sách giáo khoa và phương tiện truyền thông của người Việt đã đưa ra nhiều sự kiện thiếu chính xác về nhân vật Lưu Vĩnh Phúc trong diễn biến lịch sử nước ta từ thập niên 1860 đến thập niên 1880, đồng thời cũng bỏ qua mối quan hệ của họ Lưu với nhiều chí sĩ Việt Nam hoạt động trên đất Tàu vào đầu thế kỷ XX. 

Viết về buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều người đã đồng hóa hoạt động của các đạo quân Cờ Đen, Cờ Trắng và Cờ Vàng và dành cho chúng các danh từ thảo khấu, thổ phỉ, giặc cướp … Nhận định này phù hợp với thực tế lịch sử những năm giữa thập niên 1860, nhưng đã không hoàn toàn chính xác kể từ năm 1868 trở đi, khi mà đạo quân Cờ Đen đã thần phục triều đình và hoạt động như một lực lượng cơ hữu của người Việt Nam.  Song, trước hết, xin nhắc qua nguyên nhân về sự hiện diện của các đạo quân này tại Việt Nam. 



I) THÁI BÌNH THIÊN QUỐC VÀ SỰ XUẤT HIỆN CÁC ĐẠO QUÂN THỔ PHỈ


Vào những năm cuối thập niên 1840, đất nước Trung Hoa rơi vào loạn lạc, nhiều nơi dân lâm vào cảnh đói kém, một số người nhân cơ hội này đứng lên, vận động quần chúng, xây dựng thế lực, chống lại triều đình. Đáng kể nhất là cuộc nổi dậy của Hồng Tú Toàn cùng một số thuộc hạ ở Quảng Tây.

Trong những năm tháng đầu tiên, lực lượng nổi dậy thắng lợi tại nhiều tỉnh thành, họ chiếm lấy Nam Kinh, đổi tên thành Thiên Kinh, kinh đô của Thái Bình Thiên Quốc trong “triều đại” của họ. Tình trạng giằng co giữa triều đình nhà Mãn Thanh và Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn kéo dài đến những năm đầu thập niên 1860. Mãi đến năm 1864, lực lượng triều đình dưới quyền các danh tướng Tăng Quốc Phiên,  Lý Hồng Chương mới đánh bại được Thái Bình Thiên Quốc, Hồng Tú Toàn tự tử.

Tuy nhiên, với một lực lượng quần chúng lên đến hàng triệu người tồn tại gần 15 năm, hậu quả của chiến tranh không thể giải quyết trong một ngày, một bữa, nó còn kéo theo nhiều hậu quả lâu dài. Dù thất bại, song nhiều đạo quân dưới quyền Hồng Tú Toàn vẫn tiếp tục hoạt động chống phá triều đình nhà Thanh. Họ lui dần về phía Nam và một lực lượng khá lớn dưới quyền tướng Ngô Côn đã xâm nhập vào hẳn lãnh địa Việt Nam, đáng kể nhất là các đạo quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng của Bàn Văn Nhị, và Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc.


Họ đã sử dụng miền Bắc Việt Nam làm nơi ẩn tránh sự truy đuổi của triều đình nhà Mãn Thanh, đồng thời nuôi quân, củng cố lực lượng bằng hình thức cướp bóc tại các địa phương họ trú đóng hay đi qua. Để chống lại giặc cướp có hiệu quả, triều đình Huế kêu gọi nhà Thanh cử quân sang phối hợp. Đây là chi tiết khiến có sự nhầm lẫn rằng nhà Thanh cử quân sang xâm chiếm nước ta vào thập niên 1860, tranh giành quyền lợi với thực dân Pháp. Người được Bắc Kinh cử sang nước ta phối hợp lâu dài trong việc tiễu phỉ là Đề đốc tỉnh Quảng Tây Phùng Tử Tài.
      Vào khoảng cuối năm 1867, đầu năm 1868, quân triều đình đạt được một thắng lợi quan trọng khi chấp nhận sự hàng phục của đạo quân Cờ Đen dưới quyền Lưu Vĩnh Phúc, một thủ lãnh quân sự mới hơn 30 tuổi (sinh năm 1837). Trách nhiệm đầu tiên mà triều đình giao cho họ Lưu là tiêu diệt hai đạo quân Cờ Trắng và Cờ Vàng. Ngay vào tháng 1 âm lịch năm 1868, ông ta đã nhận được lệnh tấn công đạo quân Cờ trắng của Bàn Văn Nhị tại Tuyên Quang.

Đây là bước ngoặt quan trọng của thủ lãnh quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc trong quá trình sát cánh cùng quân đội Việt Nam chống lại các đạo quân thổ phỉ khác, đồng thời góp phần gây cho thực dân Pháp những tổn thất nặng nề. Nó tách hẳn đạo quân Cờ Đen ra khỏi hàng ngũ của hai đạo quân thổ phỉ kia, song trong một thời gian dài, nhiều tư liệu lịch sử vẫn đồng hóa cả ba lực lượng trên như một.

Điều này phát xuất chủ yếu từ nhận định thiếu chính xác của các cây bút phương Tây về một lực lượng đã gây cho thực dân Pháp những tổn thất nặng nề. Cho dù trước năm 1868, Lưu Vĩnh Phúc và đạo quân Cờ Đen của ông ta từng có những hoạt động tác tệ, song không thể vì thế mà phủ nhận những đóng góp của họ trong quá trình hàng phục và hợp tác với quân triều đình.

Tháng 3 AL năm 1869, với sự phối hợp của đạo quân nhà Thanh do Phùng Tử Tài chỉ huy, quân triều đình và quân Cờ Đen đã đại thắng quân Cờ Vàng trong một trận đánh lớn tại Lào Cai và đánh bật họ ra khỏi căn cứ địa Hà Giang.

Dù hết lòng phục vụ triều đình nhà Nguyễn, song trong bước đầu, không phải họ Lưu đã nhận được sự tín nhiệm của vua Tự Đức và quần thần. Phải chờ sau một thời gian dài, ông ta mới được tin tưởng và giao nhiều trọng trách, cũng như nhận lấy nhiều ân sũng.


II) LƯU VĨNH PHÚC – NGƯỜI CÓ CÔNG HAY KẺ TỘI ĐỒ?

Như đã đề cập ở phần trên, triều đình nhà Nguyễn chấp nhận sự qui hàng của đạo quân Cờ Đen và sử dụng họ như một lực lượng cơ hữu của mình, song nhiều quan lại vẫn tỏ ra e dè, hoài nghi thiện chí hợp tác của họ. Tháng 10.1869, đã có chủ trương đưa đạo quân của Lưu Vĩnh Phúc qua khỏi biên giới Việt-Trung, trở về lãnh thổ Trung Quốc.

Tháng 8.1870, Đề đốc Phùng Tử Tài đề nghị cho Lưu Vĩnh Phúc về nước, Phúc sợ bị nhà Thanh truy sát, xin ở lại châu Bảo Thắng (tỉnh Lào Cai) để khai thác tài nguyên và hợp tác đánh giặc. Vua Tự Đức cho rằng “dùng người Man đánh người Man là một việc cần, Vĩnh Phúc vốn thù nhau với Hoàng Anh, nên khéo khích để dùng …”.

Đúng như lời nhà vua phán, nửa năm sau khi quân Cờ Đen được tiếp tục sử dụng, vào tháng 2 AL 1871, có tin Lưu Vĩnh Phúc đã giết chết Hoàng Sùng Anh, thủ lãnh đạo quân Cờ Vàng. Tỉnh thần Hưng Hóa đề nghị thưởng phẩm hàm cho Phúc, song tin chính xác cho hay, họ Hoàng chỉ bị thương trong trận đánh. 

Vị quan lại cao cấp của triều đình tại khu vực phía Bắc lúc bấy giờ là Lạng Bằng Ninh Thái Thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm. Họ Hoàng rất tín nhiệm Lưu Vĩnh Phúc, vào tháng 9 AL 1873, đã đề nghị triều đình cử họ Lưu làm Phòng ngự sứ (tòng ngũ phẩm), song vua Tự Đức không chấp thuận, chỉ đồng ý xuất bạc kho ra để ban thưởng.

Tháng 11.1873, một sĩ quan cao cấp Pháp là Đại úy Francis Garnier được cử ra Bắc với danh nghĩa bề ngoài là dàn xếp những rắc rối do tên lái buôn Jean Dupuis (Đồ Phồ Nghĩa) gây ra, kỳ thực nhằm thực hiện ý đồ tấn công thành Hà Nội, mở đường cho việc đánh chiếm các tỉnh miền Bắc.

Ngày 20.11.1873, Garnier ra lệnh tấn công thẳng vào thành, quân triều đình dưới sự chỉ huy của Khâm mạng đại thần NguyễnTri Phương chống trả quyết liệt, song trận chiến cũng sớm kết thúc trong ngày. Thiệt hại về phía Việt Nam khá nặng nề: cụ Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và mất sau đó, con trai cụ là phò mã Nguyễn Lâm tử trận…Thiệt hại của phía Pháp không đáng kể, và điều này cho thấy thực lực về quân sự giữa hai bên có sự chênh lệch quá lớn. 

Tuy nhiên, có một điều mà thực dân Pháp đã không ngờ tới. Hơn một tháng sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, ngày chủ nhật 21.12.1873, Francis Garnier dẫn một toán lính Pháp 12 người truy đuổi một nhóm quân Cờ Đen khiêu khích và chạy trốn tại khu vực Ô Cầu giấy thuộc phủ Hoài Đức. Không ngờ ông ta lọt vào ổ phục kích của địch. Garnier té vào một hố sâu đào sẵn, trong khi lính Cờ Đen ào tới. Ông ta rút cây súng lục bắn đến viên đạn cuối cùng, rồi chịu chết. Ngay lập tức, đầu của Garnier bị quân Cờ Đen cắt rời và mang đi 

Cái chết của viên sĩ quan từng lập nhiều công trạng này gây chấn động cả nước Pháp. Hàng chục năm sau, nhiều tượng đài, công trình tưởng niệm Francis Garnier được xây dựng trên khắp Đông Dương, và cả trên đất Pháp. Điều đó chứng tỏ sự tổn thất về nhân sự của Pháp là rất to lớn. Cùng tử trận với Garnier còn có một trung úy và một thiếu úy Pháp nữa 

Chiến công này của quân Cờ Đen dưới quyền Lưu Vĩnh Phúc đã giải tỏa phần lớn mối nghi ngờ của vua Tự Đức và triều thần đối với họ Lưu. Tháng 2 AL 1874,  nhà vua “chuẩn cho Lưu Vĩnh Phúc được nhắc bổ làm Phó Lãnh binh quân thứ ấy. Đoàn quân ấy từ quản đội trở xuống thưởng cho thăng 3 trật và thưởng tất cả binh dõng đi trận ấy bạc lạng và tiền (bạc 345 lạng, tiền 3.000 quan), là xét công đánh trận ở Cầu Giấy”. Với chức danh Phó lãnh binh, hàm tòng tam phẩm, từ thời điểm này, Lưu Vĩnh Phúc đã chính thức trở thành một quan lại trung cao cấp của triều đình Huế.

Điều trớ trêu là cái chết gây chấn động của Francis Garnier lại xảy ra trong lúc Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Tường, đại diện triều đình, và Đại úy hải quân Philastre, đại diện phía Pháp đang trên đường ra Hà Nội để dàn xếp mọi việc. Nghe được tin này, Philastre giận dữ, vỗ bàn và đùng đùng đòi quay trở lại.

Trước thái độ của viên quan Pháp, Nguyễn Văn Tường đã trổ tài biện luận sắc bén của ông để thuyết phục ông ta. Ông thong thả nói rằng “…trả lại thành (Hà Nội) để sớm định điều ước, là lệnh của quý tướng; lấy lại thành rồi sau mới nghị hòa là mệnh lệnh của vua nước tôi; bọn chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh ấy. Còn như Hà Nội giết An Nghiệp, cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương, đó đều là do sự không ngờ, cũng không phải là bọn chúng ta làm ra … sao bằng đưa thư ngay cho Hà Nội … hoặc được hỏi rõ duyên do An Nghiệp bị chết, rồi sau sẽ báo, há chẳng càng ổn ư”. 

Lý lẽ của ông Tường khiến Philastre dịu lại và đồng ý tiếp tục hành trình…

III) QUÂN CỜ ĐEN VÀ SỐ PHẬN CÁI ĐẦU CỦA ĐẠI TÁ HENRI RIVIÈRE

Nhờ tài biện giải khéo của Nguyễn Văn Tường, sự đổ vỡ đã không xảy ra, ông và Philastre tiếp tục hành trình ra Bắc để theo dõi tình hình tại chỗ. Cuối cùng hòa ước Nhâm Tuất 1874 ra đời, chủ yếu nhằm chính thức hóa một thực tế đã diễn ra từ năm 1867, đó là công nhận quyền kiểm soát của Pháp trên toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh. Mặt khác, Pháp trả lại các thành trì đã chiếm đóng tại miền Bắc và được tự do thông thương trên thủy lộ sông Hồng.     

Vào lúc này, đạo quân Cờ Đen dưới quyền Phó lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc tiếp tục truy kích đạo quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh. Tháng 8 AL 1874,  họ Lưu được nhà vua thăng Lãnh binh, hàm chánh tam phẩm. Hai tháng sau, vua y lời tâu của Thống đốc đại thần Hoàng Tá Viêm, thăng Lưu Vĩnh Phúc lên chức Đề đốc, hàm tòng nhị phẩm, ngang với Tham tri (Thứ trưởng), Tuần phủ (Tỉnh trưởng tỉnh nhỏ). 

Có thể nói vào thời điểm này, Lưu Vĩnh Phúc là cánh tay phục vụ đắc lực bậc nhất của Hoàng Tá Viêm tại nhiều tỉnh miền Bắc. Song song với việc tìm diệt đạo quân Cờ vàng, quân Cờ đen còn có những hoạt động khiến thực dân Pháp lo lắng. Họ kiểm soát dọc theo sông Hồng, dùng vũ khí ngăn chặn hay uy hiếp tinh thần nhiều người Pháp thông thương trên thủy lộ này khiến cho Soái phủ Nam kỳ rất bức xúc.

Trong tình thế đó, Thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ là Le Myre de Vilers quyết định dùng áp lực quân sự để phá thế bế tắc giữa hai bên. Ông ta cử Đại tá Henri Rivière  dẫn vài trăm quân đi tàu ra Bắc vào đầu tháng 4.1882. Việc tiếp xúc giữa Rivière và các quan chức Việt Nam đứng đầu là Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu không dẫn đến kết quả mong muốn, viên Đại tá Pháp cho rằng phía Việt Nam không có thiện chí giải quyết vấn đề và quyết định tấn công thành Hà Nội vào ngày 25.4.1882. Thêm một lần nữa, chỉ sau mấy tiếng đồng hồ chiến đấu, thành lại rơi vào tay giặc. 

Gần một tháng sau, lịch sử lại tái diễn. Ngày 19.5.1883, Đại tá Pháp Henri Rivière cũng bị quân Cờ Đen khiêu chiến và phục kích sát hại tại Ô Cầu giấy, nơi Đại úy Francis Garnier đã gục ngã cách đó 10 năm. 

**

Cũng như Garnier, sau khi bị tử thương tại Ô Cầu giấy, Đại tá Henri Rivière bị quân Cờ Đen cắt mất cái đầu cùng với 29 sỹ quan, binh lính Pháp, bỏ vào giỏ treo nơi công cộng cho mọi người chứng kiến và sau đó đem vùi lấp ở đâu không thấy các tài liệu lịch sử Việt Nam nói đến . 

Mãi về sau, người ta mới phát hiện trong hồi ký của Bonnal, nguyên công sứ Pháp tại Hà Nội, một đoạn mô tả chi tiết quá trình khai quật đầu và thi thể của Henri Rivière. Đoạn hồi ký này là phần phụ lục của tác phẩm Correspondance politique  du commandant Rivière au Tonkin (Avril 1882 – Mai 1883) (Thư từ chính trị của viên tư lệnh Rivière tại miền Bắc, từ tháng 4.1882 đến tháng 5.1883) do André Masson tập hợp, chú thích và xuất bản cùng lúc tại Hà Nội và Paris năm 1933.

Ngày 17.9.1883, tức gần 4 tháng sau ngày Rivière tử trận, Bonnal được lệnh chứng kiến cuộc khai quật tử thi đầu tiên với tư cách viên chức hộ tịch. Theo sự chỉ dẫn của một số giáo dân Thiên chúa giáo khu vực phủ Hoài Đức, họ đã đến làng Ké Mai thực hiện cuộc đào tìm. Chỉ sau vài nhát cuốc, họ phát hiện một chiếc hộp bằng cây sơn đen tình trạng còn tốt. Viên bác sĩ Masse trong đoàn khai quật đã tự tay bật nắp chiếc hộp và những người chứng kiến nhìn thấy giữa lớp đất sét đỏ là một chiếc đầu người đã thối rữa một phần thịt. 

Căn cứ vào những lọn tóc dài đã ngã màu hoa râm, họ nhận ra đúng là chiếc đầu của Rivière. Trong hộp cây, còn có những đốt xương bàn tay, chứng tỏ 2 bàn tay của Rivière cũng bị chặt đứt, bỏ chung với đầu lâu. Sau đó, đoàn khai quật moi tìm từ lớp sình của một khu ruộng, tìm được 28 chiếc đầu lâu khác đã bị quân Cờ Đen vứt đi sau thời gian trưng bày.     

20 ngày sau, Bonnal tiếp tục cho tìm phần thi thể còn lại của H. Rivière. Trong biên bản ngày 8.10.1883, ông ta mô tả khá tỉ mỉ kết quả khai quật và một dấu hiệu cho phép khẳng định đã tìm được thi thể của Rivière, đó là 2 chữ H.R. thêu trên tấm vải che ngực và những cánh tay đã bị cắt mất bàn tay. Tất cả được cho vào một chiếc quan tài bằng cây rất dày, phủ vôi bột và chở về Hà Nội 

Sau một buổi lễ  được tổ chức tại nhà thờ tạm của đoàn truyền giáo Pháp tại Hà Nội, đầu cùng thi thể của H. Rivière và của các sĩ quan, binh sĩ dưới quyền được cải táng ở nghĩa trang dành cho người Pháp ở thành phố này.

 
IV) TỪ ĐỈNH VINH QUANG ĐẾN BI KỊCH, CON ĐƯỜNG KHÔNG XA

Phải khách quan thừa nhận rằng trong hai trận đánh ở Ô Cầu giấy năm 1873 và năm 1883 có công lao rất lớn của quân Cờ Đen. Tổ chức này đã chuyển mình từ những thổ phỉ trong thời gian đầu mới trốn sang Việt Nam thành một đội quân tinh nhuệ dưới quyền điều động của quan binh Việt Nam và đã làm quân Pháp lắm phen mất ăn mất ngủ.

Từ thời điểm này, mọi nghi ngờ của vua Tự Đức và triều thần đối với Lưu Vĩnh Phúc đã tan biến hẳn. Sau khi đạo quân Cờ Đen  của họ Lưu loại trừ được viên đại tá Pháp, “ Tin thắng trận tâu lên. Vua mừng lắm, thưởng Vĩnh Phúc thăng thụ Đề đốc, cho mũ áo Chánh nhị phẩm, gia thưởng một cái kim có chữ ‘trung dũng’…”. Hai tháng sau, nhà vua lại ban cho họ Lưu tước Nghĩa Lương nam.

Tuy nhiên, đúng 2 tháng sau sự kiện tiêu diệt H. Rivière, ngày 19.7.1883, vua Tự Đức qua đời, việc triều chính bắt đầu rối nát do sự phân hóa trong hàng ngũ triều thần và sự lộng quyền của hai Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Người được vua Tự Đức chỉ định kế vị là ông hoàng Dục Đức chỉ ở ngôi mấy ngày, chưa kịp làm lễ tấn tôn; người kế vị tiếp theo là vua Hiệp Hòa cũng bị bức tử sau 4 tháng làm vua.

Trong thời gian vua Hiệp Hòa còn tại vị, ngày 25.8.1883, hai phía Việt-Pháp đã ký Hòa ước Quý Mùi (còn gọi là Hòa ước Harmand, theo tên viên chức đại diện phía Pháp). Hòa ước có 27  khoản,  đặc biệt khoản 23 ghi rõ “…Nước Pháp sẽ một mình mang lấy trách nhiệm  đuổi quân Cờ đen ra khỏi Bắc Kỳ và dùng các biện pháp để bảo đảm an ninh và tự do trên sông Hồng Hà”. Điều này cho thấy thực dân Pháp kiêng dè quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến mức nào!

Song, việc triều đình Huế đặt bút ký hòa ước có điều khoản trên có nghĩa là họ mặc nhiên chấp nhận từ bỏ việc sử dụng quân Cờ Đen như một lực lượng cơ hữu của mình. Họ không thể công khai điều động lực lượng này, song cũng giống như trường hợp hòa ước Nhâm Tuất 1862 và sự tồn tại của tổ chức kháng chiến Trương Định, triều đình tiếp tục nuôi dưỡng và hỗ trợ đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc.

Một năm sau, ngày 6.6.1884, hai phía Việt-Pháp lại ký Hòa ước Giáp Thân, mở đường cho việc thuộc địa hóa toàn diện đất nước Việt Nam. Hòa ước này không nhắc đích danh quân Cờ Đen, song điều thứ 15 cũng ghi rõ là quân Pháp được đóng binh ở bất cứ nơi nào xét thấy cần (Nguyễn Phương – sđd – trang 220). 

Trong thời gian này, những cuộc đụng độ trực tiếp giữa quân Pháp và các lực lượng chính quy do nhà Thanh phái đến nhằm phối hợp với triều đình Việt Nam trong việc tiễu phỉ trở nên ngày một nghiêm trọng. Cuộc xung đột được giải quyết bước đầu bằng Hòa ước Fournier ngày 11.5.1884 chỉ bao gồm 5 điều khoản ngắn ngủi, không đủ để đảm bảo một sự hòa giải đích thực. Các trận đánh lớn tiếp tục nổ ra, dẫn đến việc Pháp đánh chiếm Phúc Châu, thủ phủ của tỉnh Phúc Kiến, và bao vây đảo Đài Loan của Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là chiến tranh giữa hai phía đã được đẩy ra khỏi biên giới Việt Nam, xâm nhập vào đất Tàu.

Cuối cùng, vào ngày 9.6.1885, triều đình nhà Thanh phải đồng ý ký với Pháp một hòa ước lâu dài có tên là “Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại”, gọi tắt là Hòa ước Thiên Tân, lấy tên nơi ký kết văn kiện này. Ngay điều khoản thứ nhất của hòa ước này đã ghi rõ là Pháp giành quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để giải tán hay tống xuất các băng nhóm cướp bóc để đảm bào sự trị an. Về phần mình, nhà Thanh cam kết giải tán và trục xuất các băng nhóm đang trú ẩn ở các biên giới giáp với Việt Nam, không được gửi quân qua biên giới với Việt Nam 

Điều này có nghĩa là nhà Thanh phải từ bỏ mọi sự hỗ trợ hay hợp sức với đạo quân Cờ Đen trong việc chống Pháp. 



V) LƯU VĨNH PHÚC VÀ CÁC NHÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Khi trở về Trung Quốc, Lưu Vĩnh Phúc bỏ lại đạo quân Cờ Đen cho các thuộc tướng. Đó cũng là lúc mà cuộc xuất bôn của vua Hàm Nghi khỏi kinh thành Huế (5.7.1885) và  hịch Cần vương đã làm khởi phát nhiều cuộc khởi nghĩa của Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Cao … 

Các lãnh tụ Cần vương tìm cách liên lạc với đạo quân Cờ đen để gây thêm thanh thế, song mất Lưu Vĩnh Phúc, họ như rắn mất đầu, một số lấy việc cướp bóc để tồn tại và đó là thời điểm mà đạo quân này bị lên án mạnh nhất. Theo bộ sách của Pháp “Histoire militaire de l’Indochine française ”, đến ngày 23.3.1887, trong các cuộc hành quân tại Cao Bằng, Pháp vẫn còn ghi nhận sự hiện diện của các toán quân Cờ Đen.

Về phần Lưu Vĩnh Phúc, sau khi trở về Trung Quốc, ông được nhà Thanh cử làm Tổng binh Quảng Châu. Năm 1894, khi cuộc chiến tranh Trung-Nhật nổ ra, ông đang là Tổng binh đảo Đài Loan. Chiến tranh kết thúc một năm sau đó, thắng lợi nghiêng về phía Nhật Bản, nhà Thanh phải chấp nhận ký hòa ước Mã Quan (Shimonoseki) ngày 17.4.1895 giao đảo Đài Loan cho Nhật. Tuy nhiên, người đứng đầu đảo này là Đường Cảnh Tùng không tuân thủ hòa ước, công bố nước Cộng hòa Đài Loan với Lưu Vĩnh Phúc là Phó Tổng thống. Song trước sự tấn công mãnh liệt của quân Nhật, thế yếu, Lưu Vĩnh Phúc đã phài cải trang làm một người phụ nữ và trốn khòi Đài Loan.

Quay lại đại lục Trung Hoa, Lưu Vĩnh Phúc trở thành chỗ tựa cho các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động trên đất Tàu. Trong bài viết dài hơn 100 trang có nhan đề “Quelques précisions sur une période troublée de l’histoire d’Annam”, cây bút Pháp A. Delvaux có nhắc đến chi tiết vào tháng 3.1888, Lãnh sự Pháp tại Quảng Đông phát hiện Đề đốc Trần Xuân Soạn có mặt tại nhà Lưu Vĩnh Phúc. 

Năm 1900,  một nhà cách mạng Việt Nam là cụ Phan Bội Châu mưu tính tập hợp các nhà trí thức yêu nước trong một phong trào chống Pháp, với sự hỗ trợ của Lưu Vĩnh Phúc. Năm 1905, cụ đi gặp họ Lưu. Cụ cho rằng nếu không có Lưu “dân tộc chúng ta sẽ không có được một giọt máu nào để rửa cổ giặc”.

Nhà Lưu Vĩnh Phúc không chỉ là nơi tiếp đón cụ Phan Bội Châu, mà cả cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Thiện Thuật (hay Nguyễn Thuật). Riêng cụ Thuật là người ở lâu dài trong nhà họ Lưu.

Tháng 1.1907, sau khi từ Nhật về, cụ Phan Bội Châu lại đến nhà Lưu Vĩnh Phúc, nơi đây, cụ vạch ra kế hoạch Đông Du, đưa thanh niện Việt Nam sang Nhật du học. Thất bại trong việc thành lập một đạo quân chống Pháp, cụ Phan muốn biến người từng lãnh đạo đạo quân Cờ đen và các đồng chí của ông thành những nhân tố của một cuộc cách mạng chính trị.     

Cụ Phan Bội Châu là một trong những nhà cách mạng khả kính, vì vậy những gì cụ viết về Lưu Vĩnh Phúc là điều cần được chúng ta lưu tâm. Trong hồi ký “Phan Bội Châu niên biểu”, cụ Phan đã có những dòng sau đây về Lưu Vĩnh Phúc: “Thượng tuần tháng 8 đến Quảng Đông, thăm chào ông Lưu Vĩnh Phúc, nhân gặp được cụ Tam Tuyên tán lý xưa là cụ Nguyễn Thuật. Lưu tuổi gần 70 mà dung mạo quắc thước, khi vừa gặp chúng tôi, nói tới người Pháp thì vỗ tay trên án mà nói rằng: ‘Tả! tả! tả!’     
“Tôi nhân đó mà nhắc lúc quân Tây hai lần lấy thành Hà Nội, nếu không có quân Lưu đoàn, thì chắc quân ta không được giọt máu nào rơi ở cổ người giặc. Ôi, Lưu đoàn chẳng phải là một bậc anh hùng hay sao? Tôi lúc bấy giờ, cái lòng sung bái anh hùng hết sức dốc đổ vào Lưu …”

Sau Cách mạng Tân Hợi năm 1911, Lưu Vĩnh Phúc được cử làm Tổng trường dân đoàn Quảng Đông, tiếp tục công tác cho chế độ dân quốc đến ngày qua đời vì bệnh năm 1917.

Căn cứ vào các tư liệu trên, có thể thấy rằng vai trò của Lưu Vĩnh Phúc trong lịch sử kháng Pháp của Việt Nam thay đổi qua từng thời kỳ; thời kỳ trước năm 1868 là một kẻ cầm đầu thổ phỉ, thời kỳ từ 1868 đến 1885 là một quan lại triều đình Việt Nam, lập nhiều chiến công, được vua Tự Đức phong đến chức Đề đốc, hàm nhị phẩm, và thời kỳ từ 1885, bị hất ra khỏi guồng máy chiến tranh Việt-Pháp, quay về Trung Quốc, góp phần cải thiện đời sống xã hội của nước ông vào những thập niên 1890-1900 -1910.

Từ những thập niên qua, nhiều nhà viết sử Việt Nam đi theo lối mòn của các cây bút Pháp, vốn hận thù đạo quân Cờ đen từng sát hại hai sĩ quan ưu tú của họ, nên đã có những miêu tả và nhận định không công bằng đối với một người như Lưu Vĩnh Phúc. Đặt họ Lưu đúng vào vị trí đích thực của ông trong cuộc kháng chiến lâu dài của người Việt chúng ta là cách mang lại sự công bằng lịch sử, phù hợp với đạo lý do cha ông truyền lại.


LÊ NGUYỄN 

"Chuyện Cái Ví,'" để suy gẫm

CHUYỆN CÁI VÍ Một người đàn ông nhặt được một chiếc ví có 7000 đô la. Vài ngày sau, anh ta đọc được thông báo nói rằng một người đàn ông già...