20 February 2025

Đêm Trên Đại Dương, tranh A.C.La




Đêm Trên Đại Dương
(Oceano Nox)
Oil on canvas
24x30 inch (61x76 cm)
by A.C.la

**

Đêm Đại Dương

Em ngồi ghềnh đá trời đêm,
Nhìn Trăng tỏa bóng, lòng thêm ngóng chờ,
Cành Hồng ai tặng bao giờ,
Nâng niu một đóa mà mơ Tình Đầu.
Cuộc đời sóng gió, bể dâu,
Mình Em một cõi, ôm sầu, đại dương.

Minh-Hưng
** 



16 February 2025

Tình Vẫn Như Thơ. . ., truyền ngắn

Trên chiếc xe đang chạy tới địa điểm tham dự buổi hợp mặt của các cựu học sinh tại California, mọi người đang nhắc lại những chuyện ngày xưa khi còn sống ở quê nhà. Bỗng Luân quay sang phía mẹ Thủy và nói :

- Đáng lẽ hồi đó con phải sớm xin hai bác cưới Thủy.

Rồi như không đợi mẹ Thủy trả lời chàng nói tiếp :

- Bác biết không, mùa hè năm đó con vừa đậu xong trung học đệ nhất cấp, cha con đưa con vào Quy Nhơn để học thêm Anh Văn. Hai cha con lên chuyến tàu chợ ở ga Bồng Sơn. Ngồi xuống ghế xong mới thấy người ngồi trước mặt là một cô gái trạc bằng tuổi con. Trông cô ta thật thùy mị, dịu hiền với nét đẹp thơ ngây của một nữ sinh nơi thành thị. Con chỉ biết len lén nhìn… Và sau hơn hai tiếng đồng hồ thì tàu đến ga cuối cùng là Quy Nhơn, mọi người đều rời tàu, con nhìn cô ta xuống ga trong niềm luyến tiếc, và tự hỏi không biết có bao giờ gặp lại hay không. Đứng trên sân ga cha con nói, mình nghỉ một lát rồi cha vào thăm ông bạn trước khi đến nhà bác Lộc, nơi gởi con ở trọ học hè. Ông bạn mà cha con muốn viếng té ra là ông trưởng ga Quy Nhơn, là bác trai. Hai cha con được bác trai tiếp trong thân tình. Và người mang nước trà ra đãi khách té ra là cô gái mà con vừa gặp trên tàu, là Thủy đó bác…

- Thế sao hồi đó cậu không chịu đi hỏi nó ? Mẹ Thủy hỏi.

- Thưa bác cũng tại hoàn cảnh chiến tranh mà. Gia đình con phải bỏ ruộng vườn chạy giặc, nhà cửa nay dời mai đổi, con thì tay trắng chưa có sự nghiệp gì, chỉ mong sau khi có chút sự nghiệp mà Thủy đợi được thì con mới nghĩ đến chuyện lập gia đình. Luân đáp.

Xe cũng vừa đậu vào “parking lot” nên câu chuyện đành bỏ dở.

**

Về lại Houston, câu chuyện ngày xưa mà Luân gợi lại khi nói chuyện với mẹ nàng trên xe, làm Thủy cứ miên man nghĩ ngợi, như một cuộn phim dĩ vãng quay về. Hồi đó chính quyền quốc gia vừa tiếp thu tỉnh Bình Định sau 10 năm kháng chiến, gia đình Thủy cũng như đồng bào toàn tỉnh đều có được một cuộc sống tương đối yên vui trong thanh bình. Cha Thủy là một công chức làm trong ngành hỏa xa, còn mẹ nàng thì quán xuyến việc gia đình với một cửa hàng tại Tam Quan buôn bán những mặt hàng nông thổ sản, gia đình Thủy được xem như một bổn mà hai quê. Những ngày cuối tuần Thủy thường được mẹ cho đi Quy Nhơn thăm cha và mang những thức ăn mà mẹ đã làm sẵn vào cho cha nàng. Mùa hè năm đó Thủy vừa tròn 16 tuổi, học xong lớp đệ ngũ, gặp Luân trên chuyến tàu rồi sau đó gặp lại Luân tại nhà, mà sau nầy quen nhau Luân cứ nhắc lại như một định mệnh an bài cho hai đứa. Thật tình mà nói lúc đó Thủy chỉ xem cuộc gặp gỡ như một chuyện tình cờ, mặc dầu lúc gặp Luân trên tàu nàng có một cảm giác khác lạ vì lần đầu tiên có người khác phái cùng trang lứa chú ý đến mình một cách không bình thường, trong cái nhìn của chàng có chút gì say đắm, làm nàng thấy ngượng, ngượng một cách dể chịu, và khi nàng bưng nước ra mời khách thì nàng rất ngạc nhiên, và dường như trực giác cho nàng biết rằng nàng có một chút ràng buộc gì với anh chàng trẻ tuổi nầy.

Rồi một ngày giáp Tết như mọi năm, năm đó Luân cũng mang một nhành mai thật đẹp từ Bồng Sơn ra tặng gia đình nàng, cũng là lúc Thủy được nghỉ học vào dịp Tết. Nàng đang loay hoay giúp mẹ làm những món bánh, mứt chuẩn bị cho ngày Tết thì Luân đến. Lần nầy gặp nhau Thủy thấy Luân rất hoạt bát, nói năng rất tự nhiên, qua những lời đối đáp thăm hỏi giữa chàng và mẹ nàng. Rồi mẹ nàng lại giới thiệu chàng với nàng: “Đây là cậu Luân con anh Năm ở Bồng Sơn, năm nào anh Năm cũng sai cậu Luân mang ra tặng nhà mình một cành mai, con đi học xa nên chưa có dịp gặp nhau, thôi hai đứa nói chuyện với nhau, để mẹ xuống làm cho xong công việc, Luân ở lại ăn cơm trưa với bác và em Thủy rồi hãy về”.

Còn lại hai người trong phòng khách, Luân như sợ mất một cơ hội, chàng vội nói:

- Cô Thủy nè, hôm hè gặp cô trên tàu sau đó vào thăm bác trai lại gặp cô đã cho tôi một sự ngạc nhiên kỳ lạ. Bây giờ gặp lại cô ở đây tôi có cảm giác khác với những năm trước tôi ra đây, vì hình như nhà nầy có một mãnh lực gì đó thu hút tôi vậy.

- Nói thực lòng không đó, không khéo rồi ôm hận nghe chưa. Thủy đáp lại.

Luân hơi chột dạ, vì chẳng ngờ một cô gái trông dịu dàng, nhút nhát, thơ ngây như Thủy lại có thể nói được một câu già giặn và dày dạn như thế nầy. Chàng hơi bối rối nhưng tiếp lời ngay:

- Tôi nói thực tình mà, không phải là lời tán tỉnh đâu, vì lâu nay tôi xem hai bác như cha mẹ tôi vậy, xem nhà nầy như nhà mình mà không biết rằng trong ngôi nhà nầy có một người đẹp thì thực là vô tâm. Thủy không thấy bác gái khi nãy nói gì sao. Tôi thành thật xin lỗi Thủy.

Rồi hai người trao đổi với nhau những chuyện không đâu, thời tiết, khí hậu, và những chuyện vui buồn nơi cửa lớp sân trường, đêm văn nghệ cuối năm vừa qua của trường mình vui như thế nào. . .

Những tháng năm tiếp theo, Thủy thường nhận những lá thư của Luân với những lời thăm hỏi ân cần như một người thân trong gia đình chứ tuyệt nhiên không có một câu nào tán tỉnh nàng. Vào những dịp lễ lớn hay nghỉ hè, Luân thường báo trước cho Thủy biết chàng sẽ ra thăm Thủy và gia đình nàng, trong thư chàng cũng mong được Thủy hướng dẫn đi xem những danh lam thắng cảnh của đất Tam Quan. Rồi Thủy đã cùng Luân đi viếng khu “Mã A Sầu”, Hang Dơi nơi bãi biển Trường Xuân, Cấm An Sơn, Biển Thiện Chánh, và Nhà thờ Gia Hựu … Kỷ niệm êm đềm làm Thủy nhớ mãi là dịp họ viếng nhà thờ Gia Hựu. Một ngôi giáo đường xây theo kiểu tây phương cao đẹp, nằm trên một khu đất rộng có hàng tre là-ngà vây quanh, nhìn xuống một cánh đồng lúa chín vàng, xa xa là rừng dừa xanh, sau lưng là núi non trùng điệp một màu xám ngắt của dãy Trường Sơn hùng vĩ uy nghi. Nơi đây ngày xưa có trường trung học Đặng Đức Tuấn. Vừa đi Luân hát khe khẻ bài Nắng Chiều rồi đến đoạn cuối chàng hát lớn và đổi lời một chút: “Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà. Gợn buồn nhìn em, anh nói yêu em. Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi. Nhìn em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi…”. Luân dẫn giải: Thủy biết không, đây là quê hương của bài Nắng Chiều khi tác giả của nó, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đang làm Thư Ký của trường Đặng Đức Tuấn, ông đã sáng tác ra bài hát nầy. Không biết mối tình của ông với ai và khi nào mà thật là thơ mộng nhưng sao buồn quá, cái cảnh “về qua sân vắng, về nương dâu úa, chân bước không hồn, nhớ câu thề tim tái tê, duyên ghé về đâu, giọng hát câu hò thôi hết đưa, bóng yêu kiều biết đâu mà tìm…” thì thật là não nuột, thê lương quá chừng. Lạy chúa tôi! xin đừng để cho những cuộc tình duyên phải thương lỡ vỡ xảy ra trên cõi đời nầy nữa… Luân nói như là một lời cầu xin cho chính mình. Bỗng Luân nắm tay Thủy, kéo Thủy đứng đối diện, nâng nhẹ hai tay nàng và nói như vừa đủ nghe: “Anh yêu em”. Thủy thật bất ngờ, không kịp phản ứng như thế nào, nhưng một cảm giác lâng lâng khó tả đang chạy khắp người nàng. Nàng đứng bất động và đón nhận một nụ hôn đầu đời. Họ đã yêu nhau.

Chín năm sống thanh bình dưới thời đệ nhất cộng hòa rồi cũng qua nhanh. Sau khi anh em tổng thống Ngô Đình Diệm bị các tướng lãnh giết chết thì Miền Nam xem như sụp đổ. Cộng quân đã gia tăng hoạt động, cảnh chiến tranh phủ tràn khắp nơi, khủng bố, ám sát, pháo kích, người chết xảy ra hàng ngày. Những người có liên quan đến phía quốc gia đều phải dời về thành phố cư trú. Người dân Miền Nam phải sống cảnh một cổ hai tròng. Gia đình nàng dời về Sài Gòn, cha nàng xin nghỉ việc ở ngành hỏa xa và chuyển sang ngành vận tải tư, mở công ty chuyên chở hàng hóa từ Sài Gòn về các tỉnh và ngược lại. Gia đình Luân dời về Quy Nhơn cũng là lúc chàng tốt nghiệp xong bậc trung học. Hồi đó tương lai của thanh niên có bằng cấp Tú Tái chỉ có hai con đường rộng mở, hoặc là được động viên hay là tự nguyện vào các trường võ bị đào tạo sĩ quan, hoặc lêu bêu ở các trường Luật khoa, Văn Khoa, Khoa Học… để chờ những kỳ thi tuyển hằng năm vào các trường đại học chuyên nghiệp ở Sài Gòn như Sư Phạm, Kỷ Sư Phú Thọ, Y khoa, Dược Khoa, Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh… Luân ghi danh học Luật được một năm thì chàng thi đậu vào trường Quốc Gia Hành Chánh. Đây là cơ may để chàng có dịp gần gũi với Thủy vì chàng và nàng được cùng sống tại Thủ Đô, nhưng cái cớ mà chàng thường đến thăm Thủy ít nhất mỗi tháng một lần là cha Luân thường gởi tiền vào cho chàng đều qua những chuyến xe tải của công ty cha Thủy. Luân và Thủy lại có dịp gần nhau hơn qua những cuộc đi picnic cuối tuần khi thì ở Thảo Cầm Viên, lúc thì lên những vườn cây ở miệt Lái Thiêu, Thủ Đức, Biên Hòa… Có lúc Thủy và Luân cũng có bàn đến chuyện hôn nhân, nàng muốn làm đám cưới cho xong, nàng sẽ ở với cha mẹ nàng, còn chàng muốn bay nhảy đến những phương trời viễn mộng nào cho thỏa chí nam nhi đều cũng được. Nhưng Luân nhất mực cho rằng chàng không thể chịu đựng nổi cái cảnh vợ chồng phải sống xa nhau kẻ nhớ người trông, rồi đùng một cái, một trường hợp đau đớn nào đó xảy ra, người ra đi thì không nói làm chi chứ kẻ ở lại thì vô vàn đau khổ dở dang cả một đời. Chàng sẽ nói đến chuyện lập gia đình khi biết rằng mình đã ổn định được cuộc sống.

Phải nói Luân chiếm được cảm tình của cha mẹ Thủy nhờ ở hai gia đình quen nhau từ trước nhưng phần lớn cũng nhờ vào tư cách và tài năng của chàng. Những cuộc trà dư tửu hậu giữa những ông bà già Bình Định xa quê trong thời buổi chiến tranh ly loạn thường là những chuyện chính trị, tình hình chiến trận, trên trời dưới đất, đông tây kim cổ không thiếu chuyện gì. Chuyện đánh giá về tương lai của những thanh niên trẻ của tỉnh nhà cũng không thể thiếu, con ông nầy vừa thi đậu vào đại học, con bà kia vừa mới tốt nghiệp dược khoa, y khoa; thằng đó xem thế mà giỏi, thằng kia coi vậy chứ chẳng ra gì…Luân vẫn thường được các ông bà đề cập đến trong niềm tin tưởng và tự hào của quê hương “địa linh nhân kiệt”. Nên nhiều buổi trà đàm Luân cũng được gọi đến dự phần góp chuyện. Một hôm trong bữa cơm tối gia đình, cha Thủy nói như để một mình ông nghe: thằng nhỏ nó nói có khi cũng đúng. Mẹ Thủy hỏi: ông nói thằng nhỏ nào nói cái gì mà đúng với không đúng. Cha Thủy đáp, thằng Luân đó chớ ai, nó mới vào trường Hành Chánh có mấy năm, ở đó người ta đào tạo thế nào mà nó có lối lý luận rất vững chắc, sâu sắc và chặt chẽ, mà dường như còn thấy xa trông rộng là đàng khác. Thủy lại chen vào: Nhưng ảnh nói thế nào mà cha khen dữ vậy? Cha Thủy từ từ nói: Trước hết những người già như cha đây mà có khi bị bọn báo chí nó làm rối tung không biết được hư thực của sự việc như thế nào, Hôm qua mấy cô chú bàn cải về cuộc chiến tranh Việt Nam, người thì cho rằng đây là cuộc nội chiến, người lại gọi đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ, có người lại cho rằng đây là cuộc chiến tranh ủy nhiệm… Thằng Luân thì cho rằng tất cả những lập luận đó đều mằm trong sự mê hoặc qua sự tuyên truyền của Cộng Sản, vì mục đích của Cộng Sản là muốn dành chính nghĩa để tranh thủ nhân tâm mà thôi, chứ thật ra đây chỉ là một cuộc xăm lăng và bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản. Mà mục tiêu như thế nên phe Cộng sản làm gì có chính nghĩa, còn bên quốc gia của chúng ta vì có chính nghĩa, vì chúng ta chiến đấu để tự vệ, chiến đấu cho tự do và dân chủ, nhưng yếu thế phải nhờ cậy đến đồng minh thì nhiều người nông nổi, những chính trị gia gà mờ đã vội cho là thế nầy thế nọ, có bàn tay lông lá xen vào, nên họ cứ tưởng rằng chúng ta không còn chính nghĩa. Thằng Luân còn cho thấy một viễn ảnh, đất nước rồi sẽ đi về đâu, các cô bác cũng còn hồ nghi nhưng không ai phản bác cả, riêng cha thấy thì nó nói cũng có lý. Mẹ Thủy hỏi: vậy thì nó tiên đoán quốc gia mình sẽ ra sao vậy ông. Cha Thủy nói: Nó nói rằng cuối cùng chúng ta sẽ thắng, nhưng không lâu thì Cộng Sản sẽ chiếm Miền Nam, vì mục tiêu của Cộng Sản là phải đánh thắng, phải chiếm cho được Miền Nam để bành trướng chủ nghĩa chứ không phải vì thống nhất nước nhà, vì độc lập dân tộc hay vì phát triển đất nước. Do đó, việc Hòa Đàm Ba Lê chỉ là việc làm thừa thải, mấy ông Mỹ thì muốn trấn an bọn phản chiến, còn bọn cộng sản thì chỉ để hoản binh và tuyên truyền, khi nào cơ hội đến thì chúng sẽ đánh rốc tới Sài Gòn, cơ hội đó là lúc Mỹ rút hết quân ra khỏi Miền Nam, là Mỹ chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa …

Với cái nhìn và nhận xét về Luân như thế nên cách đối xử và những cảm tình mà cha mẹ Thủy dành cho Luân cũng có một vị trí đặc biệt và nó cũng có ảnh hưởng lớn lao thuận lợi trong vấn đề tình cảm giữa hai người. Khi nghe có người cho rằng các ông Quốc Gia Hành Chánh là những ông thư lại, sớm vác ô đi tối vác về, trốn nguy hiểm trong chiến tranh, không ngang tàng như những sĩ quan tác chiến, hoặc bay bướm bằng những chàng sĩ quan phi công, hải quân. Nhưng Thủy lại nhìn thấy ở Luân rất có tâm với đất nước, chàng theo dõi tình hình rất sát, suy nghĩ, phân tích về các vấn đề quan trọng của nước nhà, chàng có những hoài bão và quyết tâm thực hiện. Những việc làm của chàng cũng đầy nguy hiểm và không thiếu những chuyện bất trắc có thể xảy ra, chàng dấn thân trong những hoạt động chính trị và đấu tranh cho lý tưởng của mình. Nhìn khuôn mặt đầy đặn của chàng, thì ở một người đàn ông phải được xem là phúc hậu và rất tình cảm, tuy nhiên nhìn kỷ vẫn có những nét bướng bỉnh, nhất là khi chàng bất bình mới thấy được cái quyết liệt trên khuôn mặt đó. Còn bay bướm và hào hoa thì thực tế trả lời tại ký túc xá của học viện, nơi ở dành cho những chàng sinh viên phong lưu hành chánh, người ta thấy xe cộ tấp nập và không bao giờ vắng bóng giai nhân, vào những ngày nghỉ cuối tuần. Ngẫm lại lời nói của O. Pirmez “Người đàn bà chỉ yêu những người họ kính trọng”. Thủy rất kính trọng Luân và nhiều lần hỏi lòng nàng thấy mình đã yêu Luân thực sự.

Thời gian rồi cũng qua nhanh, Lễ tốt nghiệp Cử Nhân Ban Công Pháp trường Luật Khoa Sài Gòn đồng thời với Lễ tốt nghiệp Ban Đốc Sự ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh của Luân đã đến. Ngày chàng lên đường nhận nhiệm sở tận ngoài Miền Trung chàng đến chào cha mẹ Thủy, nhưng tuyệt nhiên chàng cũng không đề cập gì đến chuyện của hai người, khi ra về chàng nháy mắt cho Thủy theo ra ngoài rồi hẹn Thủy ngày hôm sau sẽ gặp nhau ở một quán vắng thường gặp ở ngoài xa lộ. Thủy đã dự định trong đầu là lần nầy sẽ trách Luân về chuyện kéo dài thời gian, không sớm lo việc hôn sự hay ít nhất là cha mẹ Luân phải vào Sài Gòn một chuyến để các ông bà già lâu ngày có cơ hội gặp nhau, sau là có lời đính ước cùng cha mẹ nàng. Nhưng khi vừa ngồi vào bàn là Luân đã mở lời trước: “Trước hết, anh xin lỗi Thủy là đã làm em hồi hộp chờ đợi cái ngày mà cha mẹ anh sẽ vào gặp hai bác để tính chuyện của chúng ta. Em hãy yên tâm, trên đường nhận nhiệm sở anh sẽ ghé về gia đình trước để thưa chuyện với cha mẹ anh rồi sau đó anh mới ra nhiệm sở. Anh nghĩ rằng trong năm nầy thế nào mọi chuyện cũng đâu vào đó. Tin tưởng anh em nhé. . .”. Thủy thấy dường như Luân đang nhìn thấu trong đầu mình, bao nhiêu những điều Thủy dự định nói, dự định trách móc thảy đều được Luân nói ra tất cả, nên cuối cùng Thủy chỉ biết nói: “Em tin tưởng tất cả nơi anh”. Rồi nàng lại thừ người ra, nghĩ đến những việc sắp xảy ra có được như Luân đã hoạch định hay không, hay những thay đổi kinh hoàng gì có thể xảy đến. Nàng với Luân rồi sẽ ra sao, có còn sống gần nhau? Còn gặp lại nhau ? Sao lúc nầy nàng thấy mình rất cần đến Luân quá đổi. Mấy hôm nay chỉ nghĩ tới vấn đề giữa hai người, bây giờ nàng chợt nhận ra Luân đối với nàng thật khá quan trọng… Biết người yêu đang lo lắng, Luân tìm cách chuyển đề tài qua cuộc sống của những người bạn thân đang ở rất xa họ.

Ba tháng sau khi Luân đi nhận nhiệm sở, vào một buổi sáng Thủy cầm tờ Chính Luận đọc tin sớm như mọi ngày, nàng bàng hoàng khi đọc cái tít lớn nơi trang nhất “Quận Hoài Ân thất thủ, Trung Tá Quận Trưởng tử thương, Phó Quận Trưởng mất tích”, tờ báo rời khỏi tay nàng lúc nào không hay. Thủy bật khóc thành tiếng rồi chạy thẳng vào phòng nằm vật vã trên giường. Suốt cả tuần nàng phờ phạc cả người, không ăn được ngủ được. Đầu óc Thủy quay cuồng, ở đâu cũng thấy hình ảnh Luân thấp thoáng, mờ nhạt qua dòng nước mắt, tất cả những hình ảnh ấy làm cho trong nhớ thương có pha thêm nhiều hương vị đắng cay. . . Khi quận lỵ được tiểu đoàn Trâu Điên ra giải tỏa và tình hình chiến sự đã lắng dịu, Thủy xin phép cha mẹ ra tận nơi để thăm hỏi tin tức về Luân, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín, những sĩ quan và binh lính có mặt tại quận trước giờ bị tấn công mỗi người đều nói một khác, nhưng mọi người đều phỏng đoán rằng Luân đã chết trên chặng đường rút lui vô rừng. Về lại Sài Gòn với tâm trạng buồn bã, với bao hy vọng đều tan biến, nàng không còn muốn giao thiệp với ai ngay cả các bạn gái đang học Văn Khoa với nàng, có lúc nàng chỉ nghĩ đến cái chết….

Nỗi buồn nào rồi cũng ngui ngoa theo thời gian. Trong suy tư Thủy chợt nhớ lời Luân đã từng nói với nàng rằng mọi chuyện trên đời chắc chắn phải có sự kết hợp theo nhân duyên của nó, ví như một giọt nước được đưa vào trong cơ thể con người, lại có một phần trở thành nước mắt, có phần lại trở thành nước tiểu, nên trong mỗi chúng ta họp tan, phân ly đều phải tuân theo lẽ đó, vậy thì có gì phải buồn lòng khi sự việc xảy ra không như ý muốn chúng ta. Nàng thầm cảm ơn Luân khi chàng có một quan niệm hôn nhân rất thoáng nếu không giờ nầy nàng đã mang tiếng là một quả phụ khổ đau. Nàng quyết định đi học lại, lấy lại quân bình và bắt đầu một cuộc sống mới…

Một buổi trưa thứ Bảy, khi ở thư viện về Thủy thấy cha mình đang tiếp khách nhưng không ai xa lạ một vị linh mục có họ hàng với nàng, một vị dân biểu quốc hội là bạn thân của cha nàng và một vị sĩ quan hải quân trẻ tuổi. Tối hôm đó cha nàng gọi nàng vào phòng riêng cho biết vị sĩ quan trẻ tuổi đã nhờ những người quen với gia đình mai mối muốn cầu hôn với Thủy. Cha nàng nói hôn nhân đại sự là chuyện của nàng, nên mọi quyết định là do nàng, cha mẹ chỉ là những người góp ý qua những kinh nghiệm của tuổi đời có được, vậy thì nàng hãy suy nghĩ rồi có gì không thông thì cho cha mẹ biết. Thủy nói với cha nàng, xin cho nàng hai năm sau sẽ trả lời, nếu vị sĩ quan đó có kiên nhẫn chờ đợi. Nàng nói với cha rằng đó là thời gian cần thiết cho hai bên tìm hiểu nhau. Nàng cũng thầm nghĩ mặc dù nàng và Luân không cho cha mẹ biết chuyện họ đã yêu nhau nhưng nếu biết được chắc cha mẹ cũng bằng lòng, bây giờ Luân mất tích nên nàng cũng phải dành chút thời gian để sống cho hết tình nghĩa với nhau. Trong thâm tâm nàng nghĩ rằng biết đâu Luân sẽ trở về. Nhưng Luân đã không trở về và giữ đúng lời hứa, hai năm sau nàng đã lên xe hoa.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975, khi mà bầu trời Sài Gòn đang vần vũ như khóc than cho vận nước, thì bên trong hội trường của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa thầy Trần Văn Hương tuyên bố rằng “trò Dương Văn Minh bắt buộc thầy phải trao cái khăn ‘Mùi-Soa’ cho trỏ” trước sự chứng kiến của đám dân biểu và thượng nghị sĩ, có nghĩa là một ông Tổng Thống được Hiến Pháp công nhận, đang trao quyền cho một người nào đó mà không cần dựa vào một điều khoản nào của Hiến Pháp quy định, thì đích thị những nhà lãnh đạo đang tự treo cổ mình, Quốc Hội đã xé toạc cái văn kiện pháp lý căn bản mà mình làm ra, còn cái ông thạc sĩ luật, giáo sư trường luật đã từng cạo đầu phản đối việc làm “độc tài và gia đình trị” của một Tổng Thống thì bây giờ tự nhận là Thủ Tướng và làm một chuyện vô pháp luật như thế nầy, thì Thủy nghĩ rằng nước đã mất nên nàng hối thúc chồng hãy xuống tàu sang Hoa Kỳ cho sớm. Chồng nàng là Hạm Trưởng một hạm đội của hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Sau mấy ngày lênh đênh trên biển Thái Bình con tàu chở cả ngàn người đã cập bến đảo Guam, một căn cứ hải quân của Hoa Kỳ, mọi người dù là Hạm Trưởng cũng đều phải rời tàu để vào trại tị nạn đã được thiết lập sẵn trên đảo. Tại đây Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc sẽ làm những thủ tục pháp lý cần thiết và xét theo đơn xin của từng người mà sẽ được phân bổ cho đi định cư ở một nước thứ ba. Gia đình của Thủy được đưa đến trại Fort Chaffee, sau đó được gia đình một người Mỹ trắng bảo trợ để về định cư tại Houston, Texas. Nhờ đem theo một số vốn nên buổi ban đầu gia đình Thủy không phải vất vả lắm trước cuộc sống mới, hơn nữa gia đình Thủy đã có kinh nghiệm trong chốn thương trường nên việc làm ăn sau đó tiến triển rất tốt.

Riêng chồng Thủy cũng giống như phần đông các sĩ quan khác, vì quen với nếp sống hào hoa bay bướm nên đã không đem lại cho Thủy một niềm vui trọn vẹn, nàng đành phải ly dị mặc dù sau một thời gian định cư dài và nay đã có cháu nội ngoại.

**

Phần Luân trong trận tấn cộng của địch vào quận lỵ, chàng đã bị bắt làm tù binh nhưng vì bị thương nhẹ nên chàng được lực lượng địch chuyển sang một trạm xá dưới chân dãy Trường Sơn và sau khi khai thác chàng bị xếp vào loại “nguy hiểm cho cách mạng” nên khi vết thương lành hẳn, chàng bị đưa thẳng ra Miền Bắc và được giam giữ tại một nhà tù tận tỉnh Lao Kay, do đó không một ai quen biết gặp được chàng sau cái ngày cộng quân chiếm quận lỵ. Sau 30 tháng 4 năm 1975, chàng bị chuyển qua nhiều trại giam trong một thời gian dài, sau cùng chàng được “tạm tha” và bị chỉ định nơi cư trú. Chàng phải đi lao động sản xuất tại khu kinh tế mới Thuần Mẫn thuộc tỉnh Daklac. Trong khi chặt cây phá rừng một trái mìn phát nổ làm chàng bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện Daklac để chữa trị. Na Lang một y tá người sắc tộc Gia Rai săn sóc vết thương cho chàng. Na Lang đã kết hôn với Siu Hóa và có một con, Siu Hóa thành viên trong tổ chức Fulro, đang bị nhà nước Cộng Sản truy lùng nên phải chạy sang đất Thái, nghe đâu được chính phủ Hoa Kỳ cho tị nạn và hiện định cư tại North Carolina. Na Lang rất mến Luân, có lần nàng đã tỏ tình cùng chàng, nhưng Luân vẫn giữ lập trường cũ về chuyện lập gia đình, chàng nghĩ rằng cuộc đời chàng chưa ổn định, lập gia đình cũng chỉ làm khổ người đàn bà thương mến chàng mà thôi, hơn nữa sau đó chàng biết được Siu Hóa lại là bạn học cùng khóa với chàng ở trường Quốc Gia Hành Chánh. Nhân được chính phủ Hoa Kỳ và Hà Nội thỏa thuận cho những tù nhân cải tạo được đi định cư tại Hoa Kỳ, Luân thấy rằng nhân đây chàng có thể trả ơn Na Lang đã săn sóc tận tình để cứu sống chàng và chàng có bổn phận phải giúp gia đình bạn sum hợp, nên chàng đã đề nghị cùng Na Lang ý định của mình là họ sẽ kết hôn trên phương diện giấy tờ, và giao ước rằng khi nào đến Hoa Kỳ, Na Lang sẽ sang North Carolia với Siu Hóa, chồng nàng.

Luân định cư tại California theo chương trình tị nạn chính trị “ diện HO 15” vào năm 1996. Một tháng sau qua Hội CSV/QGHC Na Lang đã liên lạc được với Siu Hóa. Trong buổi chia tay đi North Carolia, Na Lang đã đổ nhiều nước mắt, còn Luân thì cũng bùi ngùi nhưng cảm thấy trong người rất thỏa mái. Bạn bè khắp nơi tới tấp gọi điện thoại hỏi thăm và chúc mừng chàng đã đến được bến bờ tự do. Được bạn bè đến trước hướng dẫn, chàng lăn xả ngay vào cuộc sống bằng một công việc full time ở một công ty fast food, thì giờ còn lại chàng viết sách, và giao tiếp với bạn bè… Hơn một tháng nữa thì đám bạn cùng trường với chàng ngày còn ở trung học sẽ họp mặt thường niên, họ yêu cầu chàng đứng tên trong ban tổ chức để phát thư mời đi khắp nơi, chàng đồng ý ngay.

Nhận thư mời tham dự họp mặt năm ấy, Thủy phát hiện một tên mới đứng trong ban tổ chức, nàng sinh nghi nên gọi liền cho Phan, một người bạn rất thân trong ban tổ chức họp mặt hằng năm để hỏi rõ tên Luân là ai, và được Phan xác nhận là ông Phó Quận bị mất tích ở Hoài Ân trong chiến tranh. Nàng gọi liền điện thoại cho Luân :

- Hello, xin cho tôi được gặp ông Luân.

Bên kia đầu giây tiếng Luân sang sảng như ngày nào:

- Thủy đó hả, chào em, rất mừng được gặp lại em, cứ tưởng là …

Không đợi Luân nói tiếp, Thủy nói:

- Ông biết tôi là ai, mà mừng, mà tưởng…

Vẫn lối nói dùa cợt ngày nào, Luân nói:

- Người mà tôi yêu thương suốt đời, hình bóng đang ở trong tim tôi, chẳng lẽ nghe giọng nói mà không nhận ra được sao ?

Đến đây thì Thủy không kiềm được cảm xúc, nàng bật khóc rưng rức…. làm Luân cũng đâm bối rối, đang lựa lời để an ủi nàng… bỗng Thủy ngưng tiếng khóc, nàng nói không ngừng nghỉ, những ấm ức mà nàng mang nó suốt mấy chục năm rồi, chung quy nàng trách cái tính thẳng thắn không chịu quỳ lụy của chàng, không chịu nghe lời nàng nên mới ra nông nỗi mỗi người một ngã… Nàng nói như để chấm dứt câu chuyện :

- Cuộc họp mặt kỳ nầy bà già bả khăng khăng đòi đi cho được, để được gặp anh. Liệu hồn mà trả lời đó nghe.

- Em yên chí, bác cũng như em muốn hài tội gì anh cũng chấp nhận hết.

Gặp lại Luân, mẹ con nàng như bị chàng thu phục. Chàng như đoán trước những gì mà mẹ nàng và nàng muốn nói nên chàng đã nói trước tất cả. Phần mẹ nàng cũng thương chàng như con nên cũng không muốn nặng lời trách móc chàng làm gì sau mấy chục năm mới gặp lại trong sự mừng tủi. Trên đường về lại Houston sau buổi họp mặt Thủy nói với mẹ. Mẹ định nói gì với anh Luân sao không thấy mẹ lên tiếng mà chỉ nói được có một câu vậy. Mẹ nàng nói : Hồi giờ tao và cha mầy cũng xem nó như tụi bay, thì còn trách cứ làm gì. Xem ra nó còn thương mầy lắm, nhưng làm sao thì làm đừng để tụi cháu nhỏ nó buồn.

Mùa hè năm đó họ gặp nhau trên chuyến du thuyền Princess Cruises ở Hawaii. Bảy ngày họ du lịch trên năm hải đảo lớn và sống trong cảnh thần tiên của một chuyến hải hành, họ nói với nhau những điều muốn nói và trao cho nhau những gì có thể. Một buổi chiều du thuyền vừa cập bến Honolulu, đứng bên nhau trên sân thượng cao nhất của chiếc du thuyền nhìn cảnh mặt trời lặn xuống biển Thái Bình Dương bất giác Thủy hỏi Luân:

- Bao giờ thì anh cho em biết cuộc sống của anh đã ổn định để cần có một mái ấm ?

Ý Thủy muốn khơi lại để khuyên Luân phải tìm một ý trung nhân mà xây dựng một mái ấm gia đình, và để bù lại cho Luân những tháng ngày cực khổ và cô đơn. Nhưng Luân lại hiểu theo ý khác, chàng nói:

- Thủy ơi! Anh yêu em lắm như anh đã nguyện suốt đời, nhưng bây giờ chúng mình đã già rồi. Anh còn độc thân thì không nói làm chi. Nhưng anh không muốn em phải nghe những đứa cháu nhỏ của em nói với ai đó rằng “bà nội/bà ngoại của tôi vừa lên xe hoa đi lấy chồng”. Cảm ơn em đã cho anh những giờ phút hạnh phúc như thế nầy, anh còn muốn nói gì và muốn làm gì hơn nữa!

Thủy quàng tay qua cổ Luân, nàng nói cho hai người đủ nghe:

- “Tình anh vẫn như thơ…”

Luân nói bên tai Thủy:

- “Tình em vẫn như mơ…”

Lê Nguyễn

(Chuyện hoàn toàn hư cấu, nếu có sự trùng hợp xin được thông cảm là ngoài ý muốn của tác giả)

15 February 2025

Chuyện cũ rích nhàm chán và ngứa tai

Câu chuyện "Đầu Hàng" của ông Hồ Sĩ Khuê
Điền Thảo

Một buổi sáng ít tất bật, tôi lang thang trên internet đọc được một bài viết khá dài với đầu đề rất ngắn "Đầu Hàng" ký tên Vân Xưa Hồ Sĩ Khuê. Bài viết đăng trên trang "KBC Hải Ngoại". *

Chủ đích của bài viết không phải chỉ nhắm bênh đỡ cho tướng Dương Văn Minh (DVM) về chuyện đầu hàng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 như đầu đề cho thấy, mà một phần quan trọng của bài viết nhằm chỉ trích hai nền cộng hòa của Miền Nam Việt Nam.

Dù chỉ trích nặng nề chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng ông Khuê cũng buộc lòng phải công nhận một điều: Việc tái định cư nhanh chóng và thành công cho hơn một triệu đồng bào Miền Bắc di cư vào Miền Nam. Những người di cư này trốn chạy cái gì tác giả không nói.
Tất cả người sống ở miền Nam đều đã chọn lựa tự do, không ai chối cãi được, kể cả bọn Cộng Sản mồm loa mép giải đã quen.
Trong tinh thần chọn lựa ấy, đồng bào di cư được đùm bọc đến nơi, đến chốn. Cũng không ai chối cãi được sự kiện này, khi các khu trù mật Vị Thanh, Cái Sắn, được thiết lập riêng cho người di cư mà không hề gây một xúc động tranh ghét nào của đồng bào tại chỗ.
Trên đây là một đoạn trích từ bài viết phác họa vài nét trong những thành công của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa mà tác giả cũng không thể phủ nhận. Có điều khi nhắc đến những thành quả ấy, ông Hồ Sĩ Khuê cố tránh không nói ra là ai đã có công định cư hơn một triệu dân di cư, vì biết rằng khi nói ra ông ta sẽ tự mâu thuẫn với những gì ông sắp sửa chỉ trích. 

Ông không hề đả động đến những năm thanh bình thời Đệ Nhất Cộng Hòa trước khi Hà Nội hạ quyết tâm đánh chiếm Miền Nam gây chiến tranh du kích khắp nông thôn. Trong những năm thanh bình ấy một người đi làm nuôi sống được cả gia đình; những con đường hẻo lánh xuyên qua rừng rú, xe chạy thâu đêm, không sợ cướp bóc, chỉ sợ nai rừng ra đường ngơ ngác cản trở.

Một điều mẫu thuẫn khác khi ông hoan hô cuộc đảo chính 1.11.1963 lật đổ được chế độ "phong kiến" mà ông chỉ trích năng nề. Thế rồi những tướng tá làm đảo chánh lên cầm quyền ông Khuê còn xỉ vả nặng nề hơn nữa.Ông chửi bới không thương tiếc như một bọn "chó" "vô liêm sỉ".
"Cho đến khi không còn hy vọng tiếp tục vơ vét thêm được nữa, tập đoàn này đã phân tán chạy như một bầy chó đạp phải lửa, hối hả tháo thân cho kịp trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Để lại an hưởng tài sản đã thụ đắc năm này qua năm khác, lúc cầm quyền trong nước, trên xương, trên máu, của lính, của dân, mà tiếp tục cuộc sống đế vương ở nước ngoài. Cố nhiên nay ra nước ngoài, bọn họ thừa tài sản, thừa học thức, thừa bộ hạ tay chân, thừa phương tiện. Chỉ thiếu có liêm sỉ, nên không ngần ngại sử dụng đủ mọi thứ mánh khóe, kể cả mánh khóe văn hóa, báo có, sách có, để hài cái tội đầu hàng của Dương Văn Minh."
Ngay cả công cuộc kháng cộng, ông cũng chỉ trích và cho rằng đó là thứ do Mỹ áp đặt lên quần chúng.
Tâm cảnh chung của toàn thể đồng bào từ lâu rồi đã chán chiến tranh vì thù ghét một chế độ cộng hòa giả hiệu, hết phong kiến đến quân phiệt, mà người Mỹ đã không thương tiếc phương tiện dựng nên, để chống Cộng bất chấp quần chúng trong nước. 
Tác giả bài viết nhiều lần dùng chữ "phong kiến" tiền chế để mô tả cộc lốc thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Cho dù thế ông ta vẫn chưa hả dạ mà còn muốn hạ đo ván Đệ Nhị Cộng Hòa điều khiển bởi một "bè lũ quân phiệt".
"Nhằm mục đích chế ngự các thế hệ đang trưởng thành, không để cho thanh niên sinh viên học sinh rảnh tay phát động phong trào chống đối, nhà Ngô từ các biến cố tháng 11-60, tháng 2-62, cho đến tháng 11-63, rồi Thiệu/Kỳ từ 1967, đã dùng biện pháp động viên để ngăn chận. Người ta lùa vào các quân trường lớp sinh viên học sinh mà lựu đạn cay, giây thép gai, không ngăn được họ biểu tình phản đối vụ ông Diệm đàn áp Phật giáo, phản đối Thiệu/Kỳ âm mưu hồi sinh Cần Lao Công Giáo. Để khi họ tốt nghiệp, dùng quân kỷ mà giam lỏng lớp trẻ có học vấn cao vào hàng ngũ các chỉ huy cấp thấp của quân đội."
"Đến một lúc nào đó, họ nhận ra các đàn anh họ trong quân đội đành cũng bó tay trước sự ngu muội của người Mỹ, cho rằng chống Cộng chỉ cần có một bọn tay sai nắm trọn quyền binh, mà không cần đến quần chúng nhân dân trong nước. Tướng “ngồi chơi xơi nước” Dương Văn Minh điển hình tình trạng bó tay này. Cho nên dần dà tâm cảnh buông súng đã manh nha ở lớp sĩ quan trẻ."
Dương Văn Minh đâu có bị bó tay. Ông ta có nhiều dịp để hành động phá sập cái mà ông Khuê đả phá. Bằng chứng Dương Văn Minh đã làm đảo chánh thành công, lên làm quốc trưởng. Cờ đến tay cũng chẳng biết phất. Đến cả như một văn thư yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ , Dương Văn Minh cũng y những gì tòa đại sứ Hoa Kỳ viết ra cho mà đọc. Một con người như thế dân chúng Miền Nam kỳ vọng được gì? Hay tại vì lúc đó tướng Minh không có bộ óc tài giỏi của ông Khuê ra giúp sức. Chúng tôi là những thần dân của một vong quốc ghét cay ghét đắng những vị tài giỏi không chịu bương bả giúp nước trong cơn nguy cấp mà chỉ ru rú xó bếp đợi dịp để chỉ trích:
 "Hai mươi năm quân dân miền Nam chịu đựng cảnh người Mỹ bao che bất tài, bất công, tham nhũng, bè phái, của một “chí sĩ” lạc hậu và phong kiến, và nằm trong tay quân phiệt tiếp theo sau. Tất cả đều nhân danh đủ mọi thứ giá trị tinh thần tốt đẹp, trừ sự ngay thẳng, trừ ý thức trách nhiệm trước lẽ sống còn của quê hương đất nước."
Một bài viết đầy tiên kiến và thiên kiến như thế lẽ ra không nên đọc, mà nếu đã lỡ đọc phải thì cố gắng đừng bực bội vì bực bội mất vui vài phút vài giây

Giọng điệu của ông Khuê có khi nhiễm hơi hám của đám bất mãn mà Hà Nôi đã tập hợp lại trong cái gọi là "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam". 
"Một người được xưng tụng là chí sĩ mở đầu một chế độ gọi là Cộng Hòa, sau đó gán thêm vào mỹ từ Nhân Vị để che đậy bản chất độc tài, kỳ thị, gia đình trị, dần dà tách chính quyền xa hẳn nhân dân, đưa đến tình trạng biến Nhà nước và nhân dân thành hai đối tượng thù nghịch lẫn nhau. Nhà cầm quyền lo củng cố địa vị nên chỉ bận đương đầu với quần chúng trong nước, hơn là lo việc kiến thiết đất nước, hơn là lo việc xây dựng một xã hội đáng sống cho người trong nước. Khi thấy không có ai theo mình, lại dùng trò tố Cộng để khủng bố, đàn áp, mà chống nhân dân.."
Đọc xong đoạn này, người ta thắc mắc, sao HSK không thêm một câu nữa cho trọn hâu ý chẳng hạn như..."thế cho nên Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam đã tự phát, ra đời với một chính nghĩa sáng ngời chống phong kiến, chống quân phiệt do Mỹ dựng lên".

Nếu như tác giả thật sự có mặt trong hàng ngũ chiến đấu của Miền Nam và bị tập trung mới cảm nhận được đồng bào, ít ra ở Miền Nam chưa bị nhồi sọ, luyến tiếc chế độ Việt Nam Cộng Hòa như thế nào sau tháng Tư, 1975.  Cho đến giữa năm 1976, các trại tập trung tương đối còn dễ thở, chúng tôi một đám tù được đưa ra gần Biên Hòa lấy cát. Xe đi đến gần một khu chợ, một số bà con nhìn thấy nhận ra chúng tôi thuộc chế độ cũ bị tù đầy, bà con xúm nhau có cái gì thẩy lên xe cho chúng tôi cái đó: bánh mì, nải chuối ...Có người phát giác ra trễ cố gắng đuổi theo, nhưng làm sao mà chạy nhanh bằng xe được...

Cho đến bây giờ và mãi mãi tôi không bao giờ quên được những hình ảnh và hành động quý mến của người dân đối với đám tù thất thế vì thất trận. Ai bảo "Bạc như dân", điều đó tôi không tin.

Lớn lên dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, còn nhỏ tuổi, tôi chẳng trực tiếp nhận được gì gọi là ơn mưa móc của chế độ. Có chăng  là những năm thanh bình, đi học không đóng học phí, lớp học khang trang, thầy cô giỏi giang đĩnh ngộ. Thế nhưng nếu viết nên một lời khen chê vẫn ngại bị thiên lệch. Bởi vậy chỉ xin trích ra đây nhận xét của một cựu đảng viên Đảng CSVN, đại tá Bùi Tín, về ông Ngô Đình Diệm người khai sinh chế độ cộng hòa đầu tiên cho Việt Nam (Bởi vì chính chế độ CS Miền Bắc mới là cộng hòa bánh vẽ), một con người nếu như chịu tuân lệnh Mỹ đã không chết dưới tay đám tay sai ngoại bang:
“ Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cách cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị. Giờ đây chúng ta đã có những bằng chứng về lập trường của ông Ngô Đình Diệm : chống thực dân Pháp, giành lại quyền nội trị đầy đủ, không muốn Hoa kỳ can thiệp sâu, chống lại việc ồ ạt đưa quân chiến đấu Mỹ và nước ngòai vào. Trong sự so sánh ấy, ông Hồ Chí Minh tỏ ra không bằng ông Ngô Đình Diệm. Về tinh thần dân tộc, ông Ngô Đình Diệm cũng tỏ ra hơn hẳn ông Hồ Chí Minh “. (Tâm Đạt Trần Thông: Mạn đàm Nguyễn Giang-Bùi Tín-Nguyễn Xuân Phong)
Bài viết của ông Khuê dài dòng nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có chỉ trích và hạ nhục, đọc bất cứ xó xỉnh nào trong Web của cộng sản cũng có. Thế nên không dám làm mất thêm thì giờ của quý anh chị.

Điền Thảo
29.4.2011
_____
*Vân Xưa Hồ Sĩ Khuê: "Đầu Hàng" (http://kbchaingoai.wordpress.com/2011/04/21/1833/)

12 February 2025

Trả Nợ Ân Tình, truyện ngắn


Đầu mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát và ngắm trời xanh.

Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông.

Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn.
Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo:
– Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi

Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện một con người khí khái và nghị lực. 

Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.

Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình.

Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.

Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu dụng” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.

Sau đó, những ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.

Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi, anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp nhà cửa bếp núc.

Mấy năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên thân thiết như anh em.

Nhìn tấm ảnh, tôi khen:
– Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương.
Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ:
– Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi.
Tôi tò mò, không kịp giữ ý:
– Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam?
– Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston.
Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích:
– Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979.
Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp:
– Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó.
Tôi cố tìm một lời an ủi:
– Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn?
Anh cười:
– Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng.
– Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì.
Anh trầm ngâm:
– Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà.
Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà:
– Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá.
– Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi.
– Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được.
– Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh.
– Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết.       Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu.
– Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi
Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
– Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.

Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi. Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi.  Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà.  Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.

Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.

Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười. Tính anh như  thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa:
– Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết.
Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm:
– Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?

Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và nhân cách của mình.

Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”

Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.

Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu.  Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau.  Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi. Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn.
Anh cười:
– Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!”
Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.

Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh  luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe.

Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về thời gian chị đã có lỗi lầm.

Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị:
– Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em.
Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.

Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.

Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản.

Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.

Phạm Tín An Ninh

02 February 2025

Phụ nữ tài tình hơn phái mạnh

Ông William Golding, nhà văn, nhà thơ người Anh (1911-1993) đã viết về phụ nữ thế này:
Tôi nghĩ Phụ nữ thật ngốc khi họ cho rằng họ bình đẳng với đàn ông.

Thực ra họ luôn luôn là người vĩ đại hơn đàn ông. Bất cứ cái gì đưa cho phụ nữ, họ cũng sẽ tạo ra những giá trị cao hơn.

– Khi đàn ông đưa cho họ tinh trùng họ sẽ tạo ra một em bé.
– Khi bạn đưa cho họ một căn nhà, họ sẽ tạo ra một tổ ấm.
– Nếu bạn đưa cho họ những thực phẩm họ sẽ tạo cho bạn một bữa ăn ngon.
– Nếu bạn tặng họ những nụ cười, họ sẽ tặng bạn trái tim yêu.
– Phụ nữ luôn nhân lên, tạo ra những giá trị lớn hơn bất cứ thứ gì bạn trao cho họ.
– Nhưng nếu bạn trao cho họ một thứ gì bẩn thỉu thì hãy coi chừng, bạn sẽ nhận lại ... lot of shit đấy.
(internet)

Toàn văn bài phát biểu của Tổng thống Pháp Macron

Đặng Đình Mạnh , dịch 6-3-2025 Lời người dịch: Tổng thống Pháp Macron vừa có bài phát biểu quan trọng kéo dài 15 phút trước toàn quốc vào tố...