31 December 2024

Đường mòn Hồ Chí Minh – mồ chôn tuổi trẻ miền Bắc

Nguyễn Văn Lục


Số phận của kẻ thua trận miền Nam thì đã nhận đủ thứ thiệt thòi từ kẻ chiến thắng. Những đọa đầy kể sao cho xiết tạo ra cái mà sau này người ta gọi là “ Boat People”. Nhưng kẻ thắng trận mà  sau này nhà văn Xuân Vũ đã để lại cho đời những tác phẩm nổi danh một thời như:“Xương trắng Trường Sơn”, mà “Mạng người như lá rụng” mà ” Đường đi không đến’ thì cái lẽ thắng thua chẳng hiểu còn có nghĩa lý gì!! Ai là những người chủ xướng cuộc chiến tranh được trả giá bằng xác người này? Thắng mà bằng cái giá phải trả là một đổi lấy 5 lần thì còn có nghĩa là thắng hay không! (Thời chiến tranh Đông Dương là một đổi ba). Dù lạc quan cách mấy- dù không nói ra- Sự thiệt hại và tổn thất về người về phía cộng sản là lớn lao. Người ta không thể dấu được sự thiệt hại ấy. Mặc dầu không một hồi ký nào của tướng lãnh cộng sản dám nói sự thật về tổn thất nhân mạng này. Sự tranh chấp nội bộ đi đến chỗ có thể thủ tiêu lãnh tụ đồng thời dứt điểm với vụ án”Xét lại chống Đảng” trong đó có một số lãnh đạo cao cấp bị bắt giam đồng loạt năm 1967- Một năm trước vụ tẩn tống công Tết Mậu thân 1968-.mang ý nghĩa quyết định. (Những người bị bắt như Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Phạm Viết, thiếu tướng Đạng Kim Giang vv..và Vũ Thư Hiên ..) Ở thời kỳ này, Hàng không mẫu hạm xuất hành 5337 lượt và thả 7.491 tấn bom .. – Máy bay B.52 xuất hành 2.548 lượt và thả 59.542 tấn bom và trang bị xuống Khe Sanh. – Số binh lính tử trận về phía cộng sản vào khoảng từ 10.000 đến 15.000 người. Đó phải chăng là cái giá phải trả của phe phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và tướng Nguyễn Chí Thanh? Sự trả thù nội bộ đưa đến việc thanh toán nội bộ bắt đầu từ tháng 7/1967 thì có diễn ra vụ Tết Mậu Thân được không? Những người bị xử lý này, theo Vũ Thư Hiên là những người tù không có án cho mãi tới 1973 mới lần lượt được thả. Có người thì đến năm 1976 mới được thả. Sự im lặng của hầu hết ” lãnh tụ” miền Bắc lúc bấy giờ đồng nghĩa với sự đồng lõa và bội phản.

Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, tướng Nguyễn Chí Thanh

Theo Vũ Thư Hiên thì Hồ Chí Minh kể như đã ” chết ” dưới mắt một số người. Ông Hồ bị cô đơn, dù là cô đơn trong quan điểm riêng của ông. Trường chinh im lặng “lầm lũi ở ẩn trong sự đường bệ” còn sót lại. Phạm Văn Đồng im lặng trong sự ba phải vụng về và vô tích sự vốn có của ông. Ông không muốn mất lòng ai cả, nhất là cấp trên – Mà cấp trên của ông là Lê Duẩn. Lê Đức Thọ. Nhất là nhân vật chính yếu là Võ Nguyên Giáp, cũng im lặng để khỏi trả giá đắt như Vũ Đình Huỳnh. Nói về những việc như thế này, nhà văn Nguyễn Tuân đã phải gián tiếp ví von là: “Nước ta là một pháp trường trắng, không có đầu rơi, không có máu chảy, mà có người chết”. Thật ra nói như Nguyễn Tuân thì cũng chưa đủ nghĩa. Người chết ở đây không phải là những cán bộ Đảng mà là hơn hai triệu người đã chết trong cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam” này . Tuy nhiên, mọi người có thể đồng ý với nhau là không có cách nào tính được con số thương vong chính xác về phía cộng sản Hà Nội – dù chỉ là một sự chính xác tương đối-. Xét về mặt đức lý hay mặt nhân bản mà kết thúc cuộc chiến bằng cái giá một đổi lấy năm là một xúc phạm đến phẩm giá con người, là một hy sinh vô ích, là một phí phạm không tha thứ được. Vậy mà có cái kẻ lãnh đạo đã có lần phát biểu: Con người là vốn quý nhất. Câu nói đó được ghi trong sách Giáo Khoa, trong các buổi học tập .. Vậy mà cũng chính con người ấy mang vốn quý nhất của con người để đổi lấy điều được gọi là “Độc lập, Thống Nhất, Tự Do và Dân chủ”!!! Đây là một thực tế tàn bạo và đen tối nhất của cuộc chiến này mà mọi người- nhất là kẻ chiến thắng- không muốn ai nhắc tới. Cuộc chiến Mậu Thân đã thất bại mà theo ông Mười Hương, Cục trưởng K.68 cho hay mục đích là chiếm Đài phát thanh Sài Gon, đánh tòa đại sứ Mỹ, bắt sống đại sứ Martin, đánh Dinh Độc Lập để bắt Nguyễn Văn Thiệu, để chúng phải tuyên bố đầu hàng trên Đài phát thanh Sài Gòn.
Cuộc tổng công kích Mậu Thân với ba đợt tấn kích và mỗi lần cho thấy sự thất bại vì không đạt được mục tiêu đề ra và số thương vong không phải là ít!! Người ta đành lòng phải dựa theo những ước tính tổng quát theo những con số của tài liệu của Mỹ được coi là khả tín hơn cả thì: – Phía người Mỹ có 52.227 người bị giết.(23.000 nhiều hơn trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên). – Phía quân đội Sài Gòn, con số chính thức là 188.000 người bị chết và 430.000 bị thương. – Phía Bắc Việt là: 920.000 người chết. – Phía thường dân trong miền Nam là 350.000 bị giết và 950.000 bị thương – Có 300.000 trẻ em mồ côi.(1) (1) Trích L’Aigle et le Dragon, Claude de Groulat, trang 293-294 Số phận của họ nào chết bom đạn, chết vì đói ăn, vì bệnh tật như sốt rét ngã nước hay suy dinh dưỡng là đáng kể. Họ, những lính cụ Hồ mới là những người lính chết đủ kiểu: chết trong rừng già, bên bờ suối, bờ ruộng, trong hầm trú ẩn, trên đường mòn Hồ Chí Minh, trên những địa danh như Pleime, Dakto, Hạ Lào, Mậu Thân Huế, Quảng Trị, Khe Sanh. Chỉ riêng trận Khe Sanh mà theo Peter Brush trong bài The Battle of the Khe Sanh, 1968 cho thấy bom đạn khủng khiếp như thế nào.
– Pháo binh Mỹ đã rót 158.891 quả đạn sang phòng tuyến địch – Máy bay chiến đấu của lực lượng không quân số 7 đã xuất hành 9.691 chuyến bay và thả 14.223 tấn bom và đạn Rockets. – Máy bay của thủy quân Mỹ xuất hành 7.078 chuyến bay và thả 17.015 tấn bom – Máy bay từ các Hãng riêng trong trận Khe Sanh.
Tổng cộng chung có 14 triệu tấn bom đã được sử dụng tại VN. Nhà báo Oriana Fallaci cũng có dịp đi quan sát trận địa Khe Sanh cho biết: toàn bộ sư đoàn 325, niềm tự hào của tướng Giáp đã biến mất dưới những trận mưa bom của Mỹ và được gọi là: “Điện Biên Phủ thứ hai”! “Và nhóm 50 người đầu tiên của đại đội Delta đã tới được những giao thông hào và ở đó người ta tìm thấy hàng chục khẩu moóc chê để lại, những dàn phóng rốc két, rồi liên thanh hạng nặng, những cái nón do Liên Xô chế tạo, thùng còn đầy đạn, nhiều ba lô và 400 cái xẻng mới ..”.(02) (02)Trích Oriana Fallaci La vie, la guerre et puis rien …trang 241 Nhìn cái cảnh “để lại tại trận Khe Sanh” et puis rien như Oriana Fallaci vừa mô tả cho thấy chiến tranh vừa tàn bạo, vô tình đến vô nghĩa, nhưng cũng vừa bất nhẫn đến không hiểu được. Bài viết này xin đưa ra một số chứng từ tiêu biểu nhất về số phận những kẻ đã “Hy sinh”, đặc biệt là: Giới trẻ miền Bắc, trong đó thành phần Thanh niên xung Phong trên tuyến đường Trường Sơn- trong đó có trường hợp của nhà văn Dương Thu Hương-. Đây là vết thương chiến tranh gây chết chóc và thương tâm nhất của cuộc chiến đã bị kẻ chiến thắng cố tình bỏ quên. Mỗi năm, có những buổi lễ lạc mừng chiến thắng nhân dịp 30 tháng tư. Vui mầng lắm, hãnh diện lắm. Nhưng có buổi tưởng niệm nào dành cho những người đã chết trên đường Trường Sơn? Về Đường mòn Hồ Chí Minh
Theo nhà báo Phan Nghị, “Sau Hiệp định Genève, người ta bỏ đoạn đường Quảng Ngãi- Bình Định không dùng tới nữa. Từ Bắc vào, tới khu vực Bến Hải, họ đi men theo dãy Trường Sơn rồi vào mật khu Đỗ Xá, ở đó là Tổng trạm giao liên, từ Đỗ Xá, họ xuống khu Kon Tà Nừng, tới Chu Lya và đi về phía Khánh Hòa. Từ Khánh Hòa sẽ có hai con đường, một đi vào Lâm Đồng để sang chiến khu D, một đi xuống Ninh Thuận, Bình Thuận rồi tới mạn Biên Hòa, rừng Sát… (..) Cuộc Nam Tiến của Bộ đội chính quy Bắc Việt bắt đầu dồn dập từ những năm 1962. Trước khi xuất quân, họ được bồi dưỡng trong khoảng một thời gian là 8 tháng. Tiêu chuẩn bồi dường là 2đ40 (tiền Bắc Việt một ngày). (..) Khi tới gần Bến Hải, sắp sửa vượt Trường Sơn thì các cán bộ thu hết các quân hàm, phù hiệu, huy chương và không cho phép một ai đuợc giữ những hình ảnh ở trong túi. Giầy vải cũng phải bỏ lại để đổi lấy dép Bình Trị Thiên. Và mũ bần thì đem đổi lấy mũ vải rộng vành.  Cũng từ đó họ bỏ cờ đỏ sao vàng để dùng cờ của MTGPMN và bài”Tiến quân ca” cũng được thay thế bằng bài ” Giải phóng mền Nam”.(03) (03)Trích Phan Nghị, vượt Trường Sơn, các trang 185-187. Để phù hợp với chủ trương “chiến tranh giải phóng miền Nam” do MTGPMN chủ xướng, Hà Nội còn có chủ trương nhằm đánh lừa dư luận thế giới như sau: “Giai đoạn này, những cán bộ miền Nam tập kết đưa ra Bắc trước kia đều có bổn phận phải trở về Nam, không về cũng không được, ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng về sức khỏe và nhu cầu công tác ở miền Bắc .. Như vậy, cho đến cuối 1965, xem như chính quyền Hà Nội đã vét hết dân Nam bộ tống khứ về Nam (…) Trở lại số cán bộ mùa thu, ta thấy đó là cả một cuộc “dốc túi” vét sạch. Dù là quân đội hay dân chính, dù là đảng viên hay quần chúng, dù là nhiều con hay ít con, gia đình đủ ăn hay thiếu mặc, dù là thành phần cơ bản hay lưng chừng, dù là có đủ sức khỏe hay không, không sao cả, miễn rằng không là đàn bà, là trẻ con, là ốm liệt giường hay mang bệnh hiểm nghèo đều được chỉ định về Nam” .(04) (04)Trích Kim Nhật, Về R, 249-251 Ở đây cần phải nói rõ là chính sách và đường lối do Lê Duẩn đề ra mặc cho sự bất đồng ý kiến của Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh vốn không muốn tiến hành một cuộc Tổng tấn công miền Nam. Theo nhà báo Sơn Tùng, trong một bài nói chuyện ngày 27/1/2001 tại trường cán bộ Quản lý Giáo dục đào tạo tiết lộ cho biết: “Trong bài viết của ông Vũ Ký(thư ký riêng của ông Hồ) mà ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền Phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài bào là: năm 1967, Bộ chính trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để thông qua việc tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất “ Bác” đã không đồng ý chủ trương tổng tiến công nổi dậy. Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ngay. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy, nhưng bị thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở Hungary. Nhưng sắp đến tết (Mậu Thân) rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về, ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau: “Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này… đến giờ này, trên bầu trời ta từ hướng này … phương vị này. Tuyệt đối là không nổ súng. Thời đó đang chiến tranh, vào giờ đó xuất hiện máy bay của ta Khi máy bay về tới vùng trời Hà Nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cho anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (Bác ngồi sau hút thuốc): – Thưa anh, tín hiệu đường bay lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây ạ? – Quan sát lại đi, ông Vũ Kỳ nói – Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được, người lái nói . Máy bay lượn hai vòng không dám xuống, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn .. Cuối cùng xuống theo trí nhớ của người lái chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn ” tín hiệu chệch” dưới, vẫn cứ để thế, không sửa. Vòng một vòng và máy bay chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái, Bác vẫn ngồi tĩnh lại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh . An toàn rồi anh ơi (Mừng quá nói to lm, nhưng Bác làm như không nghe thấy).(05) (05)Trich trên Blog Ba Sàm, đăng lại ngày 14/9/2011 Thật ra những tiết lộ “động trời” như trên của nhà báo Sơn Tùng là quá chậm. Vừa chậm vừa không đầy đủ. Ông Hoàng Tùng đã gián tiếp nói tới trong 10 nỗi đau của Bác Hồ, trong đó có vấn đề tranh  chấp nội bộ Đảng. Vũ Thư Hiên, trong Đêm giữa ban ngày cũng đã gián tiếp nói tới như sau: “Tại nhiều cuộc nói chuyện với cán bộ, Lê Duẩn không bỏ lỡ dịp tốt nào công kích ” quan điểm xét lại của một số đồng chí sa sút lập trường, sợ đụng đầu với bọn đế quốc quốc tế, làm nô lệ cho vũ khí luận, quên mất rằng yếu tố quyết định chiến tranh là sức mạnh chính nghĩa, là sức mạnh nhân dân”.(06) (06) Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Tiếng Quê Hương, Virginia, trang 384 Đứng ở quan điểm của người bây giờ nhìn lại sự việc, tôi chỉ thấy cái Hèn của người cộng sản, trong đó có Võ Nguyên Giáp .. Trong cuốn sách mới nhất viết về Hồ Chí Minh, William J. Duiker cũng đã đưa ra một số nhận xét chính xác như sau: “Quan điểm của Lê Duẩn nay đã rõ ràng là tư tưởng chỉ đạo về sách lược chiến tranh của Hà Nội. Lê Duẫn đã coi thường và chế nhạo sự lưỡng lự của Hồ Chí Minh không dám chọn lựa giải pháp quân sự và muốn dựa vào ngoại giao. Phần Lê Duẩn, ông cho rằng ngay từ khi rời miền Nam thì ông đã chuẩn bị mọi thứ. Tôi chỉ có một mục tiêu: Đó là sự chiến thắng cuối cùng.(07) (07) Ho Chi Minh, William J . Duiker, tóm lược 533-534 Nguyễn Chí Thanh đã hỗ trợ cho quan điểm “diều hâu” của Lê Duẩn . Người mà Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh lo ngại hơn cả là Võ Nguyên Giáp, vốn có cái uy tín quần chúng chỉ đứng sau Hô Chí Minh. Võ Nguyên Giáp đã có quan điểm làm sao tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam .. Đó là Võ Nguyên Giáp tỏ ra lo ngại phải đối đầu trực diện với người Mỹ bao lâu quân đội của ông chưa được huấn luyện kỹ càng và được trang bị bằng những vũ khí tân tiến ..Vì thế, ông phản đối chiến tranh du kích của Ngyễn Chí Thanh và Lê Duẩn, ông nghiêng về một cuộc chiến tranh quy ước. Giáp lo ngại chẳng khác gì tự sát nếu chọc giận Moscou và nếu không được sự hỗ trợ huấn luyện và võ khí thích hợp .. Nhưng cũng như Phạm Văn Đồng, Giáp im lặng một cách khó hiểu trước sự đối đầu một cách kiêu căng của Lê Duẩn .. Trong các buổi họp của Bộ chính tri, Giáp thất bại không dám nói mạnh mẽ về đường lối kỹ thuật chiến tranh của nhóm Lê Duẩn. Còn đối với Hô Chí Minh thì mặc dầu được coi là nguy hiểm nhất chống lại nhóm Lê Duẩn vì chính con người của HCM với những thành tích quá khứ. Nhưng càng ngày xem ra thái độ của nhóm Lê Duẩn tỏ ra coi thường Hô Chi Minh, bởi vì họ cho rằng nay HCM mất cái nhạy bén chính trị và càng tỏ ra lúng túng trong những suy nghĩ của Ông ta. Dư luận ở Hà Nội còn đồn thổi là Lê Duẩn đã có kế hoạch thay thế chủ tịch Hô Chí Minh bằng đại tướng Nguyễn Chí Thanh. NCT đã được giao phó nắm giữ vai trò Giám đốc cơ quan nghiên cứu chủ nghĩa Mác Xít- Lê ni nít .. Cuối cùng có thể nói, nhóm Lê Duẩn đã loại trừ Hồ Chi Minh vào thế phải im lặng..(08) (08) Ho chi Minh .. Ibid, tóm lược 536-538 Trước khi tiến hành Tổng Công kích Tết Mâu Thân, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và đám bộ hạ, cộng thêm Tố Hữu đã đi một chuyến viếng thăm Bắc Kinh và sau đó đến Liên Xô.. Con đường tiếp vận mà Lê Duẩn dùng để tiến hành cuộc chiến tranh đánh chiếm miền Nam vẫn là Đường mòn Hồ Chí Minh. Nó được xây dựng từ năm 1950. Nhưng kể từ năm 1959, có chiến dịch cho bộ đội Việt Minh xâm nhập vào Nam mỗi ngày một nhiều. Đường mòn HCM mới thực sự trở thành con đường huyết mạch vận chuyển người và võ khí vào miền Nam. Không có con đường này và không có cuộc Trung lập hóa Lào do cái sai lầm của chính quyền Kennedy, cuộc chiến đã hẳn khác. Chặn được con đường này, chiến tranh sẽ đem đến một hậu quả không giống như ngày hôm nay. TT. Nixon viết: “We failed to prevent North Viet Nam from establishing a key supply route, the Ho Chi Minh Trail, through Laos and Cambodia “.(Chúng ta đã thất bại trong việc ngăn chặn Bắc Việt thiết lập một con đường tiếp vận chính là đường mòn Hồ Chí Minh đi qua Lào và Cambodia)(09). (09) No more Vietnams, Richard Nixon, trang 47 Năm 1964 có 12.000 người và 33.000 vào năm sau. Từ 1966 đến 1971, con số lên tới 600.000 quân đội Bắc Việt được chuyển vào Nam qua đường mòn này. Hàng vạn thanh niên xung phong (TNXP) đã được điều động để xây dựng trên tuyến đường này. Sự tuyên truyền khéo léo, che dấu đã cho thấy nhiều thanh thiếu niên đã tình nguyện xông pha vào “cõi chết” vì bom Mỹ bỏ ngày đêm. Họ đã chết bỏ xác tại trận hay chết cho chính tương lai tuổi trẻ của họ sau này- không chút đền bù- như một đồ dùng phế thải. Viết về họ là xót thương cho tuổi trẻ VN. Claude de Groulat đã dành hẳn chương XVIII trong sách của ông để nói về con đường mòn này. Đây là con đường chiến lược vận chuyển người và vũ khí, dài khoảng 4000 cây số, chằng chịt những đường nhánh, có nơi chỉ rộng độ một thước, có nơi có thể cho hai đường xe qua lại. Thời gian thuận lợi nhất cho việc vận chuyển là từ các tháng giêng đến tháng tư. Để đi trọn con đường mòn này, thời gian phải mất là từ 3 đến 5 tháng . Số lượng tổn hại trên đường mòn là 15% hoặc hơn thế nữa do bom đạn Mỹ, bệnh tật và đào ngũ. Người Mỹ Đã dành hơn phân nửa số máy bay của không quân Mỹ dùng vào việc bỏ bom con đường này mà mục đích chính là ngăn chặn ít ra là một phân nửa số tiếp liệu từ miền Bắc vào Nam. Họ đã phải trả một giá đắt cho mỗi tấn tiếp liệu từ miền Bắc vào Nam. Hàng ngày có khoảng 380 lượt máy bay C-119, C-130 hoặc B.52 thả bom suốt dọc con đường này ..Trong đó có bom hóa học để đốt cháy rụi cây rừng mà một ngọn cỏ cũng không mọc được. Chưa kể các tín hiệu điện tử được gọi là Igloo White thả xuống mỗi khi có tiếng động hoặc sư vận chuyển của chân người hay xe cộ đi qua sẽ báo động cho trung tâm ở phi trường. Hoặc hệ thống Pave way dùng các tia sáng laser. Khi mục tiêu bị phát hiện, máy bay bắt được tín hiệu thì hệ thống Pave way giúp máy bay thả bom theo sự chỉ dẫn của hệ thống tìm ánh sáng ..(09) (09) Trích L’Aigle et le Dragon, Claude de Groulat, nxb Rossel, các trang từ 246-250. Họ những TNXP là những kẻ hy sinh nhiều nhất, kẻ thiệt thòi nhiều nhất, kẻ không được hưởng chút ân huệ nào của chính quyền cộng sản. Phải nói họ là những con vật thí cho sự thử thách giữa tiến bộ kỹ thuật và sức chịu đựng và sức xây dựng của bàn tay của con người. Đọc Phan Nghị trong Vượt Trường Sơn, trang 88 để thấy những trận bom lân tinh (Bombe Phosphore) mà Claude de Groulat vừa nói đến ở trên .. nó khủng khiếp như thế nào. Loại bom này mới được đem xử dụng ở các chiến trường từ mấy tháng nay. Nó có một sức cháy dai dẳng nửa ngày cũng chưa hết. Và khói của nó có mùi thối, có tác dụng xua đuổi tất cả những loài sinh vật trong đó kể cả giống người phải chui ra khỏi các hầm hố. Chất khói của nó bám vào người thì cũng chẳng khác gì như khi ta bị con giời leo bò trên da thịt”.(10) “Và khi về đến phi trường theo nhận xét của Phan Nghị về các phi công vừa đi ném bom về: “Các phi công ai nấy đều tươi cười nhảy xuống phi cơ. Tôi không đọc thấy, không nhận thấy, và cũng không nhìn thấy một nét căm thù nào biểu lộ trên khuôn mặt của họ cả .. Họ đánh giặc rất thản nhiên và vui nhộn“(10) (10) Vượt Trường Sơn, Phan Nghị, trang 83 đến 91 Những chứng từ của một số nhà văn về đường mòn Đường mòn là một thứ Holocaust của chiến tranh hiện đại. Tất cả con đường đều được xây dựng bằng tay và ở hai bên vệ đường có trồng tre, che khuất đến nỗi máy bay không thể nào khám phá ra được.

Họ là những người đi trước mà về sau. Trước những trận đánh, họ luôn luôn đi trước để mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng, họ lại chính là những người về sau thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất liệt sĩ”.(11) (11 )Trích bài viết của Francois Guillemot: Trực diện nỗi đau và cái chết, Trương Hòa dịch, Talawas 2010.
Có nhiều người trong bọn họ rời nghế nhà trường ở tuổi 13, 15 tuổi, trở thành TNXP” Giải phóng miền Nam” mà độ tuổi từ 13 đến 24 tuổi. Phần đông họ là các cô gái học sinh, không kiến thức quân sự, chưa một lần xa nhà, ban đêm vẫn còn sợ ma đã được nhanh chóng ném ra chiến trường. Có những đơn vị cấp tốc được thành lập, không được trang bị, ngay một đôi dép cũng không có, hoặc có không đúng cỡ, đi chân đất, bàn chân phổng rộp. Một số đội viên đã ngã xuống ngay từ những ngày đầu ở chiến trường vì bom đạn Mỹ, hoặc do rắn cắn chết mà chưa có một ngày cống hiến. Khẩu phần ăn rất thất thường mặc dù trên nguyên tắc phải được ăn uống đầy đủ. Tiêu chuẩn là 24 kg/đầu người. Thực tế khắt khe của chiến trường do phải di chuyển để tránh bom Mỹ nên thường ở trong tình trạng thường xuyên thiếu thốn lương thực, thuốc men và quần áo. Tháng chỉ được phân phát 4kg/đầu người. Thay vì 24 kg. Có khi khát quá, họ thấy một hố bom thì vội vã múc uống cho đã khát và cho vào bi đông. Nhưng đến khi nhá đèn Pin mới phát hiện nổi lềnh bềnh xác người chết đa thối rữa . Sự hy sinh của đội quân TNXP mà tỷ lệ nữ chiếm một nửa hoặc 70 đến 85% .. Sự hy sinh của họ là vô bờ bến, bất kể đến quy luật thể lý của người phụ nữ như thời kỳ kinh nguyệt vv.. Trong chiến tranh, không ai có thời giờ nghĩ tới cái băng vệ sinh của người phụ nữ khi có kinh nguyệt. Nhân vật Thu - một nhân vật chính trong các hồi ký của Xuân Vũ cũng từng lội qua suối khi có kinh nguyệt. Tác giả Xuân Vũ viết: “Chập sau, thấy Thu hơi tỉnh người lại, tôi hỏi: – Em thấy trong mình thế nào? Thu lắc đầu. Đôi môi Thu khô ran như muốn nứt ra. Nước da của Thu vừa xanh vừa tái. Quần áo ướt đẫm. Tôi chú ý thấy dưới đít võng những giọt nước hồng hồng. Thì tôi biết Thu vẫn khó ở. Và có th Thu ốm nặng vì cái trn lội suối này. Tôi ái ngại cho Thu vô cùng. Tôi muốn tìm ông bác sĩ Năm Cà Dom nhưng không thấy ông ta ở đâu “.(12) (12) Xương trắng Trường Sơn, Xuân Vũ. Xuân Vũ kết luận: Cô Thu, sau năm năm tình duyên và công tác chìm nổi, đã mang một chứng bệnh kinh niên mà nguồn gốc phát sinh từ lúc cô vượt sông và ngâm mình dưới suối … Do đó, cô trở thành phế nhân, suốt năm năm không biểu diễn được một màn nào . Vì thế, cô được ” ân huệ” cho về Bắc cũng bằng đường Trường Sơn, với cặp chân cô ta, như lúc cô vào Nam” .(13) (13) Xuân Vũ Ibid, trang Thay lời tựa Phần Thu: Thu sợ tất cả mọi hòn đá trên mặt đường. Mà cái mặt đường vinh quang, đường giải phóng miền Nam này có chỗ nào là không lởm chởm đá và gai ” (14) (14)Trích Xuân Vũ, Đường đi không đến, trang 20 Phải đi qua con đường ấy, phải đã từng trải nghiệm cuộc sống khó khăn nguy hiểm ngày đêm trên con đường ấy mà theo như lời Xuân Vũ : “Tôi biết rằng con đường về là con đường đầu thai một lần nữa, con đường về là con đường đói khát, con đường sấm sét, con đường đau khổ và gian khổ, con đường dốc, con đường dài, con đường đi không đến mà rồi vẫn phải đi, trên vai phải mang theo những sứ mạng bày đặt, không biết ai trao cho, một thứ vinh quang không có, một thứ tình cảm ái quốc cũngg iả tạo nốt, chỉ còn lại có tình cảm gia đình là thực mà thôi(15).            (15)Xuân Vũ, Đường đi không đến, trang 11 Các cô gặp phải các trường hợp tắt kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt hoặc đau đớn trong hoàn cảnh thiếu thuốc men và băng vệ sinh. Băng vệ sinh chỉ là một miếng vải mà thôi. Về vấn đề vệ sinh vùng kín của phụ nữ ít được đề cập đến và chẳng ai muốn rắc rối đặt thành vấn đề. Da dẻ các cô nổi ghẻ, tóc trên đầu đầy chấy rận. Các bộ phận kín trong cơ thể ngứa ngáy đến phát điên. Các cô gái còn thường xuyên bị các loại bò cạp, nhện rừng gây ra những vết cắn, nhức, sưng tấy. Các loại bọ “đen và to”, các loại côn trùng đủ loại tham lam hút máu người gây ngứa ngáy, sưng tấy trên da thịt. Thân thể mỏi mệt và ẩm ướt nơi các vùng kín là nơi lý tưởng thu hút bày muỗi và ruồi vàng nhiều vô kể. Tất cả đã khiến cho cơ thể nhiễm các cơn sốt làm mỏi mệt và tàn tạ dần dần. Phần đàn ông như theo sự hiểu biết qua những cán bộ Hồi Chính, Phan Nghị ghi nhận: “Người ta cũng còn được biết rằng những người lính của MTDTGPMN hoạt động ở vùng 4, một số lớn hiện đang mắc phải một cái bệnh quái đản: Họ bị chứng di tinh, nó bắt đầu bằng một hiện tượng xuất tinh sớm . Nguyên nhân là bộ phận tinh sách thần kinh hưng phấn quá mau..” (Trích Phan Nghị IBID, trang 105) Họ luôn sống trong một thế giới bị đe dọa bởi thiên nhiên và sự đe dọa từ trên trời. Không được thuốc men, không được thường xuyên tắm rửa, các vùng kín như háng, nách, kẽ bàn tay, ngay cả đầu vú trở thành chỗ cho các nấm mọc. Các vùng ẩm ướt bị quấy rầy bởi đủ thứ bệnh ngoài da dần dần ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tinh thần của các chiến binh. Lãnh đạo Hà Nội “lo ngại”, nhưng những người lãnh đạo quân đội ở Hà Nội chỉ biết gửi thuốc đỏ để gửi cho họ. Thuốc đỏ nào có thể chữa trị được các nấm, các vùng da khô cháy nứt nẻ, các bệnh đường ruột và nhất là tinh thần căng thẳng đến kiệt sức. Cái đói gặm mòn tuổi trẻ các cô gái. Đôi khi chỉ có cháo mà ăn. Muối đường thiếu và rau tươi thì hầu như không có. Họ phải tìm kiếm hái rau rừng. Vào mùa mưa thì măng rừng mọc rất nhiều trở thành nguồn rau chủ yếu. Vậy mà Nguyễn Văn Đệ đã viết ca tụng về: Một thời oanh liệt của TNXP .. Nhưng riêng Dương Thu Hương- kẻ trong cuộc, người đã nếm trải nghiệm đủ và viết như thế này : “Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm. Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hàng nằm nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông Hoàng Bà Chúa. Chúng được tự do và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ, so với lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm” .(16) (16)Dương Thu Hương, tiểu thuyết Vô Đề, Stanton, CA, Văn Nghệ, trang 68 Trường hợp 10 cô gái ở Đồng Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã bị hy sinh, được tôn vinh và được ghi lại như sau: ” Ngày 24 tháng bảy 1968, sau 18 lần địch đánh phá, một loạt quả bom đã thả trúng vào hầm, mười cô gái Đồng Lộc đã hy sinh vào lúc 5 giờ chiều, trong tư thế tay vẫn còn cầm dụng cụ sản xuất “.(17) (17)Trích bài viết của F. Guillemot : 10 cô gái Ngã ba thuộc ty Giao thông Hà Tĩnh, Anh hùng quê hương 1975. Hậu quả là đưa đến tình trạng một số trong bọn họp hoặc tự tử, hoặc đào ngũ hay mất tích. Theo Xuân Vũ, người ta tìm thấy trong sắc cốt hoặc trong túi áo các xác chết có những truyền đơn được thả xuống từ máy bay kêu gọi các cán binh cộng sản về đầu hàng, hoặc những chỉ dẫn cách thức về đầu hàng như thế nào ..Đó là những người lính có ý đính đào ngũ mà chưa có dịp thực hiện được thì đã bị bom đạn giết chết . Phần Phan Nghị cho rằng một khi vượt Trường Sơn vào đến miền Nam, họ có nhiều cơ hội đào ngũ hơn như đi thu mua gạo ở các vùng thôn quê là một cơ hội tốt nhất để trốn về phía Quốc Gia. “Tôi hỏi một quy chánh viên: – Ông ra quy chính trong trường hợp nào? – Đi lấy gạo. Phần lớn chúng tôi chỉ có thể lợi dụng đi lấy gạo, hay ở bệnh viện ra thì mới trốn được mà thôi . – Mỗi lần đi lấy gạo có bao nhiêu người? – Thường là 10 người – Ông lấy gạo ở vùng nào? – Vùng Chợ Cát, ( Bình Định) . Mỗi người lấy hai gạt đổ vào ba lô. Chỉ ăn 5,6 hôm là hết và lại phải đi .. Sau đó, họ được hưởng một sinh họat phí đồng đều là 20 đ/ một ngày . Nhưng để cho các quy chính viên có một sự ưu đãi hơn, một vài nơi đã linh động cắt bớt sinh hoạt phí của tù binh đi rồi bù đắp cho quy chính viên ..(18) (18) Trường Sơn, Ibid, trang 199 Người ta phỏng đoán có khoảng 300.000 vừa là TNXP, vừa là cán binh bộ đội đã đào ngũ hay mất tích hoặc chấm dứt đời sống. Bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét đã nhanh chóng hoàn tất cuộc đời của họ mà có thể chưa một ngày lâm trận. Thân xác chỉ còn là những bộ xượng lụi tàn, nằm chờ chết như một niềm an ủi cuối cùng .. Xin một lần đọc Xuân Vũ mô tả những trận sốt rét rừng: “Thôi đích thị hắn rồi ! Thằng sốt rét lại đến viếng tôi. Tôi hình dung rõ từng đợt vi trùng. Chúng hình tròn hoặc hình lưỡi lam theo lời bác sĩ giảng . Chúng xông vào cắt những túi hồng huyết cầu vỡ ra, hoặc quấn lấy những túi ấy và cũng làm cho nó vỡ ra, tồi xoắn lấy từng túi mà tiêu diệt. Sau cuộc ác chiến, khi hồng huyết cầu chống lại có kết quả thì con người cứ eng eng không lên cơn hẳn, còn khi lũ vi trùng lấn lướt hoàn toàn thì bịnh nhân run lên ngay và xác hồng huyết cầu bập bềnh trong máu …Tôi rất bình tĩnh nhưng lại vô cùng ngao ngán, bởi vì tôi biết bản thân mình đang lao vào một cuộc chiến đấu mà tôi biết trước kẻ chiến bại sẽ là tôi”.(19) (19) Trích Xuân Vũ, Đường đi không đến, trang 110 Nhưng ngoài những cơn sốt rét, còn lại đủ loại cơn sốt như Xuân Vũ viết: “Nhưng đây không phải chỉ là một cơn sốt tầm thường, một cơn sốt hơn mọi cơn sốt, cơn sốt vàng kí nin, cơn sốt đỏ của những nốt muỗi đố, cơn sốt của thế kỷ 20, cơn sốt của lòng tin và sự đổ nát, cơn sốt của chủ nghĩa và sự suy đồi trông th (…) Cơn sốt của những canh bạc mù quáng, cơn sốt của những con vẹt ăn phải quả dại, giờ bỗng nhiên câm mồm, cơn sốt của những bạo chúa khoác áo thánh thần …”. (20) (20)Xuân Vũ, Đường đi không đến, trang 83 Những điều Xuân Vũ viết ra cách đây đã nửa thế kỷ mà xem ra bây giờ vẫn còn đúng! Cũng theo Xuân Vũ: “Để vun bồi “uy tín”(hão) cho một người hoặc một vài người trên dãy Trường Sơn này, núi rững đã phải nhận hàng vạn bộ xương khô, hằng vạn nấm mồ không có nấm, không có bia. Trong không khí Trường Sơn lúc bấy giờ có vô số sự uế tạp: nào mùi thuốc đạn, nào mùi thây ma sình thối, nào hơi lá mục muôn thuở của rừng hoang, cộng vào đó trời mưa nắng bất thường. Cứ mưa xong lại nắng, đang nắng lại đổ cơn mưa, cho nên bệnh thương hàn, kiết lỵ rất phổ biến. Hay có thể nói là gần 70% người mắc những chứng bệnh này. Thế là ngoài sốt rét rừng ra, chúng tôi còn có thêm thương hàn, kiết lỵ”. Có người bị một lúc cả hai chứng: thương hàn và kiết lỵ hoặc kiết lỵ và sốt rét. Binh tướng nào còn có tinh thần chiến đấu. Hoạ chăng có Gia Cát Lượng tái sinh mới điều khiển nổi nổi đám quân ọc cạch như vậy “.(21) (21) Trích Xuân Vũ, Xương trắng Trường Sơn, trang 330. Nhưng những tiết lộ của Xuân Vũ qua nhân vật bác sĩ Cường sau đây thì thật không thể nào tưởng tượng ra được. Theo lời của bác sĩ Cường kể lại cho bác sĩ Năm Cà Dom thì khi có quá nhiều thương bệnh binh mà không có thuốc men để chữa trị được. Để thì bệnh nhân trước sau gì cũng chết. Theo lời bác sĩ Cường kể lại: “-Ừ đúng thật. Vô nhân đạo, dã man, tán tận lương tâm nữa, nhưng mà nếu để cho họ rên siết, vật vã, lăn lộn, mà mình không cứu chữa cũng không kéo dài được sự sống của họ thêm phút nào, thì lại càng dã man, tán tận lương tâm hơn. Tớ đã suy nghĩ rất nhiều, thấy mình ác, tệ thật. Nhưng làm sao ? Đứt động mạch, vỏ não bị thương, gãy đốt xương sống vv.. cậu có là thánh cũng đành co tay ở đây … Nhưng tớ không ra lệnh. Tớ cứ để cho tổ lao động họ làm. Bề nào cũng chết thà chết sớm cho đỡ đau khổ .. Sau khi nghe xong câu chuyện, bác sĩ Năm Cà Dom mới hiểu rõ câu chuyện. ” Thật là ngoài sức tưởng tượng. Thảo nào tôi trông thấy những cái hầm giống như những cái huyệt mô dưới đó có những thương binh nằm sẵn. Khi cần, cứ lấp đất, tiện lợi biết bao (22) (22)Trích Xuân Vũ, Xương trắng Trường Sơn, trang 263. Theo ông Bùi Tín, người đã từng đi trên Đường mòn Hồ Chí Minh vào thập niên 1961 đã nhận xét như sau về con đường này: “Thế nhưng, số người hy sinh trên con đường mòn này không phải là ít. Cách vài binh trạm (mỗi binh trạm cách nhau 20 đến 30km) lại có một nghĩa trang, chôn cất anh em hy sinh trên con đường mòn. Hồi ấy có đến vừa đúng 10 kiểu chết khác nhau trên con đường hành quân Nam-Bắc. Lạc đường trong rừng rậm, đi miết, không tìm được lối trở ra, bị chết đói. Đi tốp nhỏ, ngủ đêm bị hổ vồ. Trời mưa, không nhìn rõ, đạp lên rắn độc, bị cắn chết . Bị đau ruột thừa cấp tính, hoặc bị sốt rét ác tính không chữa chạy kịp. Mắc võng dưới cây to, có cơn lốc bất thường, cành cây lớn gẫy hay cành cây to đổ, bị đè chết. Qua suối lớn, nước chảy xiết, cầu trơn trượt chân, bị cuốn đi, không cứu kip. Có khi chỉ con vắt xanh, hàng trăm, hàng nghìn con ngọ nguậy trên đường ngửi thấy hơi người, bám vào chân rồi leo lên người ở nơi có động mạch, hay nơi có tĩnh mạch lớn, cắn và hút thỏa sức; thường là ở nách, ở bẹn và cả bộ phận sinh dục của nam và nữ, không cầm máu được. Có khi leo núi đá đầy rêu, trời mưa, đất trơn như đổ mỡ, trượt chân nhào xuống vực sâu cùng với ba lô nặng sau lưng. Lại có khi ăn phải nấm độc, rau độc, không cứu kịp. Chưa nói đến vụ lụt cực lớn trên rừng như năm 1965 ở (Tây guyên, nhà cửa, trâu bò, heo, gà và cả người nữa bị nước dâng lên cao và cuốn đi. Vậy mà chúng tôi vần nhẹ nhàng dấn thân vì có một niềm tin vững hắc ơ thắng lợi, vì luôn luôn nghĩ: ” Chí làm trai thời loạn, phải có mặt ở nơi mũi nhọn. Cầu an, bảo mạng, nhường hy sinh gian khổ cho người khác là sự ươn hèn và ích kỷ đáng hổ thẹn với lương tâm” (23). (23)Trích Bùi Tín, Hoa Xuyên Tuyết, trang 26-27 Cuối cùng là một con số không kể xiết những người tự nguyện chấm dứt cuộc đời .. Còn nếu không tự chấm dứt cuộc đời thì nhiều TNXP trở thành điên khùng, rồ dại như Dương Thu Hương viết trong tiểu thuyết Vô Đề:                “Mấy cậu sốt rét ác tính điên rồ, cởi hết áo quần ra mà nhảy múa la hét” . Phần ông Nguyễn Văn Đệ, trong Một thời oanh liệt của TNXP nhắc đến một tình huống dẫn đến Hội chứng sau đây: “Có khi chị em đang xúm lại đọc một lá thư của gia đình gửi đến, bỗng một người xúc động khóc nấc lên, thế là cả tiểu đội, đại đội như có sự phản ứng kích động dây chuyền tất cả đều la hét khóc toáng lên và cứ thế lan từ đại đội này sang đại đội kia. Họ khóc, họ kêu, họ chạy, họ nhảy, thậm chí trèo lên cây nói cười lảm nhảm hàng tiếng đồng hồ”. Xuân Vũ trong Xương trắng Trường Sơn viết : “Tôi được nghe anh em kể lại thì đêm qua lúc ai nấy đang ngủ, hắn ta cũng đang ngủ, bất thình lình, hắn tung màn ra nhảy xuống đất và kêu lên những tiếng thất thanh, rồi cứ như một thằng mất trí, hắn tuôn rừng lướt bụi chạy mãi, vấp té, lại ngồi dậy, lại chạy. Anh em đuổi theo bắt, nhưng không tài nào giữ hắn lại được. Mãi cho đến lúc trưa này, họ mới bắt hắn về trói lại và đi báo cáo cho tôi .. Bỗng bệnh nhân cười lên và nói như hát. – Út út út ! Rầm rầm rầm ! Tôi nhớ lúc sau trận máy bay B.52 oanh tạc, đơn vị phải gấp rút di quân, tôi thấy có một người bị đồng đội dắt đi bằng một sợi giâ mây. Và một người khác chạy bạt mạng qua những hố bom còn nghi ngút khói “(24) (24) Trich Xuân Vũ, Xương trắng Trường Sơn, trang 328-329 Đó là hiện tượng cuồng điên tập thể . Nhà văn Võ Thị Hảo sau này đã viết truyện: Người xót lại của Rừng Cười .. Câu chuyện kể về 4 cô gái giữ kho quân nhu trên đường Trường Sơn mà dòng nước xanh đen thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc của họ. Thảo, môt cô gái thứ năm gia nhập nhóm 4 cô gái và họ hy vọng dùng các lá thơm cho Thảo gội để không cho rừng cướp đi mái tóc đẹp của Thảo. Nhưng chỉ hai tháng sau, tóc của Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng manh xơ xác .. Các cô gái ôm nhau khóc cay đắng. Nhưng Thảo chỉ cười và khuyên các cô đừng khóc làm gì vì em có người yêu học văn khoa Hà Nội: Em thế này chứ em có trọc đầu thì anh ấy vẫn yêu cơ mà .. Họ đã ở đây qua ba mùa mưa rầu rĩ. Chợt một ngày có ba người lính đến lĩnh quân trang .. Anh bị một con “vượn người” lõa lồ ôm chặt, nó phát ra những tiếng cười khanh khách. Trên sàn chòi còn lại ba cô gái đang vừa cười, vừa khóc, tay dứt tóc và xé quần áo. Còn một cô đang chạy tới chạy lui ôm đầu tuyệt vọng . Cô chưa bị lây, nhưng- với cung cách này, chẳng bao lâu, cô ta cũng sẽ không thoát nổi .. Khi các cô chợt tỉnh lại thì ba người lính đã bỏ ra đi và các cô đọc được mảnh gấy ghi lại: ” Kính chào các đồng chí. Chúng tôi sẽ lấy quân trang ở một kho khác và gọi bác sĩ đến. Các đồng chí thân yêu. Chiến tranh mà. Mong tha lỗi vĩnh biệt”. Vài ngày sau, cô y tá đến, cho các cô gái uống thứ thuốc gì đó màu trăng trắng . Không thuốc thì cũng đã khỏi. Nhưng các cô gái trầm lặng hẳn và già thêm hai mươi tuổi. Cánh rừng nay được mang tên “Rừng cười” từ đó. Một ngày kia, tiếng súng địch tới gần và cả bốn cô đã hy sinh. Riêng Thảo sốt nặng- những trận sốt rét nhập môn cho người ở rừng- đã được các cô đem đi dấu ở một gốc cây kín đáo nên Thảo còn sống sót. Riêng Hiên, người lính đằ cứu các cô gái trong cơn điên loạn cũng bị hy sinh ..Người ta đang làm giấy gửi ra Bắc để truy tặng huy hiệu anh hùng thì chính trị viên đọc được những dòng này trong cuốn nhật ký của Hiên dấu trong ba lô : Sẽ không bao giờ mình quên được những người đã nhìn thấy ở Rừng Cười. Có lẽ cảnh chết chóc còn dễ chịu hơn ! Ôi ! Thế là sau chín năm ở chiến trường, tôi đã nhìn thấy ở Rừng Cười cái cười méo mó man dại của chiến tranh. Việc chiến tranh lôi những người phụ nữ vào cuộc chiến thật là khủng khiếp. Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi rơi vào cảnh ấy. Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế, giừa một khu rừng mênh mông nào đó “. Vì những dòng này, người ta kết luận rằng Hiên có tư tưởng dao động, sặc mùi tiểu tư sản (anh vốn là sinh viên) . Hành động anh hùng của anh chỉ là ngẫu nhiên, bột phát. Chính trị viên nói : ” Anh ta không bị kiểm thảo là may rồi. ”Hai năm sau, Thảo- người sót lại của Rừng Cười- đang học năm thứ nhất khoa văn. Số phận dành cho Thảo như thế nào có lẽ mỗi người tự tìm cho mình một câu trả lời. Sau chiến tranh, hầu hết họ trở về trong thân thể úa tàn, khô héo, da dẻ nhăn nhẻo, bệnh tật.. và khuyết tật trong một tâm hồn đã đánh mất tuổi thanh xuân và tuổi trẻ. 75% phần trăm số họ quay trở về nghề nông vì không có học thức, không có ngành nghề. Và kéo lê cuộc sống không chồng, không nhà, không con, không chế độ và sống đời sông độc thân vì không người đàn ông nào đoái hoài đến họ. Vấn đề quan trọng nhất là giúp họ phục hồi lại nữ tính đã bị đánh mất trong những năm tháng trên đường Trường Sơn. Nhưng đánh mất tuổi trẻ thì lấy gì phục hồi lại? Nhưng ai cũng hiểu rằng điều đó chẳng bao giờ có cơ thực hiện nổi vì chế độ nay chẳng bao giờ quan tâm đủ đến họ. Trường hợp nhà văn Xuân Vũ, ông đã may mắn thoát nạn trên đường vượt Trường Sơn, ông đã may mắn đến nơi đến chốn. Đường Trường Sơn đã để lại sinh mạng của nhiều người chỉ còn là những bộ xương trắng. Nhưng dù gì, ông cũng đã tiêu phí hơn 20 năm tuổi trẻ để đi trên con đường này mà nay bí lối: Đường đi vẫn không đến. Đến mà không đến. 37 năm sau con đường Trường Sơn ngày hôm nay đã đi đến đâu? Mặc dầu Hồi Ký của Xuân Vũ phơi bày ra những cảnh tượng mà sức người không tưởng tượng ra nổi. Vậy mà ông tiểu đòan trưởng của bộ đội chánh quy miền Bắc xâm nhập sau đã tìm Tự do sau khi đọc xong cuốn Đường đi không đến: ”Văn thì hấp dẫn nhưng chuyện khổ thì không ăn thua gì với sự chịu đựng của đơn vị tôi“.

Xem tiếp phần 2


25 December 2024

Câu Chuyện Đêm Giáng Sinh

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa dưới subway của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà trước 7 giờ tối để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ theo truyền thống của gia đình họ.

Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để “nói chuyện” với nhau. Wendy hiểu được thuật ngữ ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính ham học hỏi, Wendy đã khá thông thạo thuật ngữ này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm subway, Wendy đã "nghe lóm" được câu chuyện của hai người. Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì "trả lời" là anh không biết nơi chốn đó.

Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực nầy nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái. Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay để "nói" trong câu chuyện của họ. Khi xe lửa đến trạm thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi emails cho nhau.

Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò chuyện dùng phương tiện nhắn tin của mobile phone rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau. Chàng trai kia tên là Jack và cô gái tên là Debbie. Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập khẩu và ở cách nhà Wendy không xa lắm.

Từ những tin nhắn, emails thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai trở thành bạn thân lúc nào không hay. Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong Central Park nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi. Tuy phải ra dấu để trò chuyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện mà cô lại có dịp trau dồi "thủ thuật" để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn.

Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu "I Love You" thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào chatroom đấu láo với bạn bè, mỗi khi Wendy đặt câu hỏi "Bạn có thể fall in love với một người câm điếc hay không?" thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát. Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Thanksgiving năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu: "Wendy có chịu làm girl friend của mình không?" Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc nhưng sau đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong nội tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái "lầm đường lạc lối" trở về. Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ có vận động tới để làm thuyết khách.

Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack, cô còn cho mọi người biết là thái độ lạc quan, đầu óc thực tế, tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi hơn những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giãi bày đã không còn quá khắt khe phê bình, mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12 sau khi mọi người đã hưởng một “đêm yên bình” cho tâm tư lắng đọng.

Wendy đã có quyết định trong đầu, nếu như cha mẹ, anh chị của cô có những cử chỉ, hành động khinh miệt Jack thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để nhờ sự gia ơn và chúc lành của Thiên chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack, anh mỉm cười ra dấu cho cô:

- Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời cô sinh viên trường thuốc rơi rớt những giọt lệ cảm động.

Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ, cô nói:

- Thưa ba má, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của cô vừa thốt ra thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất, anh nhào tới ôm lấy cô vào vòng tay khỏe mạnh của anh.

Một điều mà Wendy không thể ngờ được là cô bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ cửa miệng của Jack:

- Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoại cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.

Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như ngài cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua.

(NNN sưu tầm)

23 December 2024

Người Việt Nam Giầu Tình Cảm

🇻🇳 Ở Việt Nam 9 người dân nuôi một công chức.
🇨🇳 Ở Trung Quốc 170 người dân nuôi một công chức.
🇷🇺 Ở Nga 200 người dân nuôi một công chức.
🇺🇸 Ở Mỹ 400 người dân nuôi một công chức
🇯🇵 Ở Nhật bản 700 người dân nuôi một công chức.
Qua đó mới thấy tình thương, mến thương của người dân Việt Nam đáng tự hào cỡ nào...

(FB Q Bao Doan)

22 December 2024

Tùy bút

Hình như thuở đó có một học sinh nghèo "ngoại đạo" mới vừa 16 tuổi, quê mùa nhút nhát, đang nuôi dưỡng một tình "yêu-hoa-cúc-mến-lá-sân-trường" với một cô bé làng bên cũng đang xa nhà trọ học ở Mỹ Tho như chàng. Vào một đêm Noel, quá bơ vơ buồn tủi, chàng thao thức lang thang trên khắp các nẻo đường phố vô tình, cuối cùng lạc bước vào một ngôi giáo đường khiêm nhường, ấm áp ở góc đại lộ Hùng Vương và Ngô Quyền. Chàng bỗng như chơi vơi chết đuối sững sờ bắt gặp một vùng trời ngát hương hiền dịu mộng mơ "gầy như vóc liễu, buồn như mùa thu" quá quen thuộc trong chiếc áo dài lụa trắng cao sang nửa nữ sinh nửa tiên đang quỳ cầu Kinh. Chàng rón rén khép nép lặng lẽ cố tìm một chỗ nhỏ bé nhưng cũng thoáng đủ để có thể "nuốt" được trọn vẹn tất cả bóng dáng yêu kiều thân thương kia rồi từ từ quỳ xuống thành tâm khấn nguyện cầu xin Chúa...

cho dù ngoại đạo cũng anh
cho dù áo vá sao đành sầu riêng
ngơ ngơ ngẩn ngẩn cũng duyên
nửa mê nửa tỉnh nửa ghiền nửa đeo
em như cám anh như bèo
trộn chung nước mặn cho heo chết thèm
chuông chùa sớm tối thân quen
cua đồng hoa dại gót phèn mộng mơ
xa nhà gác trọ bơ vơ
chưa quen phố nhỏ tình cờ hình như
người giấu thẹn kẻ tương tư
tóc thơm thánh lễ tình ru nắng vườn
thương mặt đường yêu giáo đường
trải hồn nâng gót mười thương vô tình
nghẹn ngào xin chúa hiển linh
cho dù không đạo con tin chúa rồi
thuyền sầu vượt sóng nổi trôi
bụi hồng chung bóng hoa cười trường thi
nơi nào người đứng người đi
con xin gửi tấm tình si đời đời
người như mộng mộng như môi
mênh mông trăng nhớ bồi hồi gió quên
lòng run đêm lạnh noel
lang thang thao thức lạ quen mơ hồ
hồn đau lạc bước rừng mơ
chưa hò hẹn bỗng thơ thơ giáo đường
chuông lành cao vút thiên hương
trắng dài áo xoá dấu buồn trắng tay
như cánh vạc vương cành mai
anh sương khói em mây bay nhiệm mầu
đời như đạo đạo như sao
mình ngoan biển điệu ta ao dâng tình…

LuânTâm

18 December 2024

Người Bỏ Lễ Đêm Đông, thơ

Dạo:
       Đêm nay Thiên Chúa giáng trần,
Xin thương cứu giúp người dân khốn cùng.


Người Bỏ Lễ Đêm Đông

Đêm đất Bắc, gió mài da tím ngắt,
Người giáo dân già mở mắt trân trân.
Đêm nay Con Chúa xuống trần,
Xin thương xót toàn dân đang khốn khổ.

Chuông nhà thờ dồn đổ,
Người xoay trở cố ngồi lên.
Thân bệnh hoạn liên miên,
Đã mấy tuần liền không thuốc.

Bạn bè quyến thuộc,
Cùng gầy guộc như nhau,
Ngày qua ngày, bữa cháo bữa rau,
Ăn không đủ, lấy đâu mà cứu nạn.
                                              
                        ** 
Xứ đạo lớn, giáo dân nghèo vô hạn,
Chốn phụng thờ lại hào nháng xa hoa.
Mới khánh thành trong ít tháng vừa qua,
Một đền thánh thật nguy nga hùng vĩ.

Riêng vật liệu phải tính bằng bạc tỷ,
Trong khi dân ngày sống chỉ ít ngàn.
Nếu chẳng may thân mắc bệnh nguy nan,
Tiền không có, thuốc thang nào với tới.

Ngày đại lễ cắt băng nhà thờ mới,
Cả làng trên xóm dưới đổ về xem.
Nhưng trót mang lấy thân phận nghèo hèn,
Người chẳng dám mon men vào nơi thánh.

Co ro ngoài gió lạnh,
Thầm cám cảnh thương mình,
Khi nhìn rừng màu đỏ tím lung linh,
Nổi bật giữa đám cùng đinh rách rưới.

Mặt buồn rười rượi,
Lòng hỏi thầm: - Chúa hỡi vì đâu,
Cùng đều là xóm đạo như nhau,
Chỗ may mắn, chỗ sầu đau vất vả?

Kìa Thái Hà, con chiên tơi tả,
Nọ Đồng Chiêm, Thánh Giá vỡ tan,
Nghĩa địa Cồn Dầu, một bãi đất hoang,
Đức Mẹ Đồng Đinh, mình mang thương tích.

Tôn giáo bị giặc xem như thù địch,
Chúng ngang nhiên chiếm đất tịch thu nhà.
Nhưng sao riêng đền thánh xứ đạo ta,
Được lộng lẫy mấy ai mà sánh kịp?

Phải chăng đó chỉ là trò lừa bịp
Của bạo quyền để được dịp gào to,
Rằng dân mình đang sung túc ấm no,
Rằng nước Việt có tự do tôn giáo!
                                                     
                            **
Lòng son sắt vững tin vào phép đạo,
Người giáo dân già lảo đảo đứng lên,
Thầm dặn lòng dù bệnh hoạn còn nguyên,
Quyết không bỏ lễ trong đêm cực thánh.

Gió từng cơn buốt lạnh,
Xuyên qua manh áo cánh vá sai màu,
Người cố nén cơn đau,
Chân khập khiễng lần sâu vào bóng tối.

Tiếng đàn ca dẫn lối,
Từng bước nhọc nhằn, nhức nhối toàn thân.
Nhà thờ xa, lết mãi cũng đến gần,
Người thở dốc, dừng chân nhìn ngoảnh lại.

Chợt mừng như điên dại,
Khi từ xa thấy những mái nhà tranh
Của xóm nghèo đang rực rỡ long lanh,
Dưới tia sáng từ trời xanh chiếu rọi.

Giơ tay làm dấu vội,
Quỳ gối xuống nhìn trời,
Đôi mắt thau như cất tiếng reo cười:
- Chúa đã xuống chính ngay nơi nghèo khổ!

Rồi quay ngắm ngôi giáo đường đồ sộ,
Muôn sắc màu sặc sỡ rộn tung bay,
Buồn thở dài: - Chúa nào có ở đây!
Con kiệt sức, đêm nay đành bỏ lễ.
                           
                           **
Đêm quá nửa, vài giáo dân đến trễ,
Đứng chôn chân, mắt ứa lệ sững sờ,
Khi nhìn ra, trước tam cấp nhà thờ,
Một cái xác cứng đờ nằm úp mặt.

       Trần Văn Lương
Cali, mùa Giáng Sinh 2013

The Waterfall, tranh A.C.La







Thác Nước
(The Waterfall)

Oil on canvas, 22x28 in (56x71 cm)
by
A.C.La Nguyễn Thế Vĩnh

Chiều Đông..., thơ


Chúc giầu sang cũng mệt, vì biết bao nhiêu mới là giầu sang?

Thử hình dung ra một trillion đô-la xem sao ($1.000.000.000.000,00):

  

Đây là tấm giấy một trăm đô-la:










Và đây là 10 nghìn đô-la:
Coi bộ cũng không bao nhiêu!
(Một trăm tờ 100 đô ... chứ mấy!) 







Dưới chân  anh chàng này là gói tiền 

Một triệu đô-la
(100 gói $10.000)


Trông cũng chẳng to tát gì! 







Một trăm triệu

Một khối đứng gần vừa vặn trên một
 chiếc pa-lét dùng kê kiện hàng.

Trông "khá hơn", phải không? 

  



Và một tỷ

Một tỉ đô-la! Trông có vẻ hơi khớp rồi nhe! 





***

Một ngàn tỉ (Trillion)

Bước vô cái sân bóng đá chất đầy tiền thế này
chắc muốn xỉu quá!!
Chú ý: những khối bạc chồng hai tầng trên các pa-lét! 

**
*


Từ nay trở đi khi nghe ai nói đến 1 trillion, bạn hiểu là họ đang nói đến
cái quảng trường chứa đầy tiền như thế đó.

(Hình ảnh: TTR sưu tầm)

11 December 2024

Để Suy Gẫm

Hỏi:

Tôi là một cô gái Hồi giáo và tôi muốn cải đạo sang Ấn Độ giáo. Làm sao để tôi thuyết phục gia đình về quyết định của mình?

Đáp:

Bạn đã tự đặt cho mình một nhiệm vụ bất khả thi. Bố mẹ bạn sẽ không bao giờ đồng ý cho bạn cải đạo khỏi tôn giáo của mình, trừ khi chính họ cũng bị thuyết phục và sẵn sàng cải đạo. Điều này đúng với bất kỳ tôn giáo nào.

**

07 December 2024

Ly Hương, Sự Chọn Lựa Nghiệt Ngã

"Xã hội càng bất ổn, lòng người càng bất an"

Cuối cùng cũng đến ngày em gái út cùng chồng và con sang Mỹ định cư. Thế là lại thêm một gia đình người thân nữa của tôi rời bỏ đất nước này.

43 tuổi, em đang có việc làm ổn định ở một doanh nghiệp nhà nước với mức thu nhập vài chục triệu đồng mỗi tháng. Hai vợ chồng có biệt thự, xe hơi và chồng còn sở hữu một cơ ngơi làm ăn riêng, tuy nhỏ nhưng cũng đáng để cho nhiều người phải mơ ước. Vậy mà điều gì đã khiến các em bỏ hết mọi thứ và dắt díu ba đứa con nhỏ dại từ giã quê hương để bắt đầu làm lại cuộc sống nơi xứ người cách đây nửa vòng trái đất? Câu trả lời nghe vẫn quen thuộc như nhiều lần tôi đã từng nghe: “Vì tương lai con cái!”.

Vâng! Đó là lý do mà rất nhiều người Việt trong dòng chảy nhập cư nước ngoài những năm gần đây thường nêu lên để giải thích cho việc ra đi của mình. Thật chua chát khi hơn 40 năm sau ngày 30-4-1975, ký ức “thuyền nhân” lại trở về dưới một dạng thức khác. Lần này, các “thuyền nhân” ra đi không phải trong tâm thế trốn chạy hoảng loạn, vội vã mà là được cân nhắc, chuẩn bị cẩn thận. Không phải trên những chiếc thuyền lênh đênh đầy bất trắc mà là trên những chuyến bay tiện nghi, an toàn. Không phải lén lút, vô định mà là công khai và được chuẩn bị sẵn mọi thứ cho đến khi cầm visa trong tay mới lên đường. Các công ty tư vấn nhập cư dạo này nhan nhản khắp nơi với những chương trình mời gọi đi định cư châu Âu, Mỹ, Canada, Úc…

Giờ gặp nhau, người ta hỏi thăm đã có PR (permanent resident) của nước nọ nước kia chưa, như một điều bình thường! Người có tài tìm đường đi theo dạng skill worker hoặc doanh nhân khởi nghiệp. Người có tiền thì bỏ tiền ra mua quốc tịch hoặc “thẻ xanh” cho nhanh. Người ít cả tiền và tài thì hy vọng kiếm được một suất đi lao động nước ngoài rồi tìm đường ở lại bằng đủ cách. Lớp trẻ đi du học hầu hết cũng không muốn trở về. Năm 2014, báo chí thông tin có 12/13 quán quân của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” không trở về nước sau khi kết thúc thời gian du học ở Úc với học bổng toàn phần cho người chiến thắng chung cuộc. Con số đó đến nay chắc đã tăng thêm sau bốn năm.

Tháng 7-2017, Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Hoa Kỳ công bố báo cáo hằng năm cho thấy Việt Nam đứng trong top 10 nước hàng đầu mua nhà tại Mỹ. Trả lời BBC, tổ chức này cho biết chỉ trong thời gian từ tháng 4-2016 đến tháng 3-2017, công dân Việt Nam đã mua bất động sản tại Mỹ trị giá lên tới 3,06 tỷ USD. Đó là mới tính số tiền chuyển đi để mua nhà tại Mỹ chứ chưa tính ở các nước khác và tất nhiên, đó cũng chỉ là phần nổi của tảng băng! Đất nước như một bao gạo bị thủng để trí lực, tài lực cứ chảy dần ra nước ngoài cho đến khi rỗng ruột. Quê hương chôn rau cắt rốn ở đây mà dường như chỉ là chốn dừng chân tạm bợ với rất nhiều người Việt bây giờ…

Làm sao có thể trách em tôi cũng như hàng triệu người dân khác đã và đang tính bỏ nước ra đi? Bởi cái lý do “vì tương lai con cái” nghe nhẹ bâng vậy mà trĩu nặng quá chừng! Sự lo toan và hy sinh vô bờ cho con cái vốn là nét văn hoá đặc trưng của người Việt. Những bậc cha mẹ thuộc nhiều thế hệ đã trải qua các cuộc chiến tranh trên đất nước nhỏ bé này, càng khổ cực nhiều ở đời mình lại càng thấm thía sâu sắc ước mơ về một cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho đời con cháu. Nhưng nỗi lo bây giờ không còn là chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày cho phần “con”, như trong thời kỳ phải thắt lưng buộc bụng vì chiến tranh và sự mông muội. Nỗi lo bây giờ là về chất lượng cuộc sống cho nhu cầu của phần “người”. Có thể nào sống an yên khi môi trường bị phá hoại tàn khốc, tài nguyên đất nước bị khai thác tới cạn kiệt, thực phẩm bẩn tràn lan khắp nơi và tham nhũng thì như ổ dịch bệnh hoành hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài? Có thể nào sống hạnh phúc khi nền giáo dục và y tế ngày càng xuống cấp, các phúc lợi xã hội không chỉ kém chất lượng mà còn tiếp tục giảm sút, các giá trị văn hoá – đạo đức bị tha hoá và đảo lộn?…

Bây giờ, bước ra đường là thấy lo: Lo nạn cướp giật, móc túi; lo tai nạn giao thông; lo ăn uống bị ngộ độc thực phẩm; lo hít khói bụi bị ung thư; lo bọn trẻ bị dụ dỗ sa vào ma túy hoặc bị xâm hại, bắt cóc… Cứ thế mà ngút ngàn triền miên lo. Thà chỉ phải lo cơm áo như ngày xưa còn dễ hơn bội phần! Xã hội càng bất ổn, lòng người càng bất an. Làm sao có thể yên tâm để con cái lớn lên trong một môi trường sống như vậy? Chưa kể, những lời đồn đoán về một tương lai xám xịt của đất nước gắn với những thỏa thuận của Việt Nam và Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng là một trong những nguyên nhân gây hoang mang khiến cho nhiều người phải tính đường tháo chạy trước. 28 năm qua, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam vẫn giữ bí mật, nhất quyết không công khai những nội dung đã ký kết với Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô. Vì thế, những đồn đãi càng ngày càng lan rộng, bất chấp mọi nỗ lực trấn an dân chúng của chính quyền. Và dù đã bước sang thế kỷ 21, thế nhưng nhà nước Việt Nam vẫn chủ trương quản lý, định hướng về tư tưởng và bưng bít thông tin không khác gì ở trong thế kỷ trước.

Hôm biết tin Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, một người quen của tôi là tiến sĩ trong lĩnh vực tài chính từng hăm hở từ Mỹ trở về nước cách đây 10 năm ngậm ngùi chia sẻ: “Em đã hoàn tất thủ tục cho cả gia đình trở lại Mỹ cách đây mấy tháng, nhưng vẫn còn cố nấn ná… Giờ thì phải ra đi thôi chị ạ, không thể để bọn trẻ lớn lên trong bầu không khí ngày càng ngột ngạt thế này…”. Bao nhiêu người trẻ có tri thức và nặng tình với quê hương đã “vội vã trở về, vội vã ra đi” như thế?

***

Hồi đi thăm Israel, tôi thường đứng lặng thật lâu trước hình ảnh những con tàu hồi hương hiện diện khắp mọi nơi, như một niềm kiêu hãnh trong lịch sử lập quốc của đất nước này. Đó là những chuyến tàu từ châu Âu, châu Mỹ… đưa hàng triệu người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới trở về xây dựng quê hương sau khi Israel chính thức được thành lập vào năm 1948. Những gương mặt người Do Thái hồi hương khi ấy còn vương nét nhọc nhằn sau Thế chiến, nhưng vẫn bừng sáng niềm hy vọng vào tương lai và ý chí quyết tâm kiến thiết quốc gia. 70 năm sau khi lập quốc, ngày nay Israel đã trở thành một trong số các quốc gia phát triển hàng đầu và là nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới (tính theo GDP danh nghĩa năm 2016). Những chuyến tàu hồi hương ngày đó đã mang về cho quốc gia này vốn liếng quý nhất là những con người tinh hoa để xây dựng thành công một đất nước đã từng không có tên trên bản đồ thế giới.

Còn chúng ta? Sau 73 năm thành lập và thống nhất đất nước (dài hơn thời gian lập quốc của Israel), những chuyến tàu (cả tàu thuỷ và tàu bay) sao lại chỉ mang dân ta ra đi mà không có trở về? Lịch sử dân tộc Việt Nam dường như gắn liền với các cuộc di dân, nhưng chua xót hơn là cho tới tận bây giờ, những cuộc di dân ra nước ngoài vẫn chưa biết bao giờ mới dừng lại? Bao câu hỏi cứ quay quắt trong tôi khi nghĩ đến em gái. Ngoài kia, trời Sài Gòn vẫn vần vũ mưa. Tiếng hát Thái Thanh vọng từ nhà ai đó nghe nức nở: “Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…”.

Và trong tôi, không hiểu sao cứ thấp thoáng khôn nguôi hình ảnh những con tàu hồi hương về Israel cùng những con tàu ly hương rời Việt Nam

(Nguyễn Thị Oanh
Share Lại Hoài Niệm T.TT)

Một Góc Nhìn "Rất Tôn Tử" Về Cuộc Xâm Lăng Của Nga Vào Ukraine* (Do people in Russia know that Putin is fighting the wrong enemy?)

John Andressen (Ukraine của bạn? - Không! Ukraine là của tôi) Người dân Nga có biết Putin đã nhận lầm kẻ thù để đánh không? Giống như Sa hoà...