16 September 2025

Cười tí tỉnh: Vợ trẻ

Một tỷ phú 60 tuổi cưới một cô gái 25 tuổi nóng bỏng...

Sau tuần trăng mật, họ tổ chức tiệc mừng đám cưới...

Sau vài ly rượu, bạn bè của tỷ phú muốn biết bí quyết làm thế nào ông ta lấy được một cô nàng 25 tuổi ngồn ngộn...

- "Đơn giản thôi" tỷ phú khoe khoang... "Tôi khai man tuổi thật"

"Ừa, nhưng ngay cả với một anh chàng 40/45 tuổi... cô ấy vẫn rất quyến rũ, mà anh đã nói anh bao nhiêu tuổi vậy?" Một người bạn hỏi.

Với nụ cười trên môi, tỷ phú đáp:
- "85 tuổi"

10 September 2025

PLANK, tập vùng bụng cho thon chắc, tránh nhiều thứ bệnh

 Với những người đã được huấn luyện tại các quân trường khi xưa thì đây chỉ là "hít đất vào thế" hay "thế bắc cầu" (qua hai thành giường), những hình phạt giúp tăng thể lực mà thôi. Vấn đề là bây giờ có còn kiên trì tập hay không?


Bây giờ người ta chế ra chữ "PLANK", nghe lạ hoắc nhưng chẳng có gì mới, nhưng hiệu quả việc luyện tập thì hẳn vẫn rất tốt. . . 


Plank là động tác tốt nhất làm giảm mỡ bụng giúp bạn tránh được rất nhiều nguy cơ cho sức khỏe. Đó cũng là lý do vì sao cả thế giới này cứ "long sòng sọc" lên với bài tập này.

Plank giúp giảm mỡ bụng - nguồn cơn của nhiều bệnh nguy hiểm
Một vòng eo quá khổ không giết chết bạn ngay lập tức, song lại mang đến 10 nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn mà chỉ đọc thôi cũng thấy giật mình.
Vòng eo quá khổ không chỉ chứa chất béo, mà còn là loại chất béo ở dạng xấu nhất. Nó được gọi là mỡ nội tạng và mang lại những nguy cơ mắc bệnh cao. Vòng eo phì nộn cảnh báo hội chứng chuyển hóa, tạo tiền đề cho các bệnh như tim mạch và nhồi máu cơ tim, tiền tiểu đường và bệnh tiểu đường mãn tính, thậm chí dẫn đến ung thư. Vòng eo quá khổ cũng là một dấu hiệu cho thấy bạn đang mắc hội chứng chuyển hóa. Ngoài ra sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú, tăng nguy cơ tổng thể tử vong. Đặc biệt, nam giới mắc bệnh bụng bia sẽ có thể dẫn đến rối loạn chức năng cương dương, ảnh hưởng đến sinh sản, làm tăng trục trặc nội tiết tố, tăng nguy cơ bị đột quỵ, bị chứng mất trí và Alzheimer. Plank chính là động tác tốt nhất làm giảm tình trạng mỡ bụng, khi vòng eo săn chắc sẽ giúp bạn nâng cao tuổi thọ. Đó cũng là lý do vì sao cả thế giới này cứ "long sòng sọc" lên với bài tập này. 
Một cơ thể săn chắc từ đầu đến chân, vòng eo thon gọn với phần cơ bụng "phẳng lì" không còn mỡ thừa có lẽ là niềm mơ ước không của riêng ai.

Để đạt được điều đó, nhất định bạn phải đến một phòng tập Gym hoặc tham gia tập luyện chăm chỉ một môn thể thao nào đó.

Đáng tiếc, đa số "dân công sở" lại khó có thể thực hiện được điều này, công việc phải ngồi một chỗ từ sáng tới chiều sẽ không còn thời gian để đến phòng Gym nữa.

Tuy nhiên gần đây, tập Plank trong phòng Gym đã được "xã hội hóa" một cách vô cùng nhanh chóng. Từ trường học đến công sở, công viên, đường phố, phòng ngủ, vỉa hè... đâu đâu cũng có người tập một cách rầm rộ và vui vẻ.

Thậm chí, Trường Cao đẳng Cộng đồng Greenfield (Mỹ) đã tổ chức định kỳ cuộc thi Plank từng khoa và trong toàn trường, người chiến thắng đã đạt kỷ lục làm ngạc nhiên 9 phút 24 giây.

Nhưng thành tích đó mới chỉ được xem là màn khởi động của cuộc thi lập kỷ lục về Plank được tổ chức tại Bắc Kinh (TQ) trong tháng năm vừa qua.

Người vô địch là anh Mao Vệ Đông, một lính đặc nhiệm đã có thể làm plank liên tục kéo dài trong hơn 8 tiếng, sau khi chiến thắng đối thủ, anh còn chống đẩy thêm để thể hiện sức mạnh vô song của mình.

Plank là động tác tốt nhất cho vùng cơ bụng.

Plank còn được gọi là động tác khúc gỗ, vì chỉ cần giữ cơ thể "thẳng đơ" là đủ.

Động tác Plank không quá khó để thực hiện. Nằm sấp, chống hai khuỷu tay vuông góc ngay dưới vai.
Nhón hai mũi chân lên, nâng thân người lên và giữ lưng, hông, cổ thành một đường thẳng.

Giữ tư thế này từ 20 giây đến hết khả năng của bạn (1 tháng có thể tập luyện và tăng lên mức 300 giây), siết chặt phần cơ bụng và duy trì nhịp thở đều.

Plank là bài tập được xem là tốt nhất cho bụng vì nó hoạt động trên các cơ cốt lõi như cơ bụng thẳng và cơ sườn ngang.

Bài tập này sẽ giúp làm săn và hình thành các cơ bắp quanh dạ dày bằng cách làm cho chúng dài ra và săn chắc nhanh chóng.

Bài tập plank giúp tăng tính linh hoạt trong các nhóm cơ khắp cơ thể. Cơ vai và cơ xương cổ cũng được trải dài hơn. 

Vùng cơ đùi và các gân kheo được xiết chặt để thành săn chắc. Bài tập plank làm căng bàn chân, ngón chân để hỗ trợ dàn đều trọng lượng cơ thể.

Với những nhân viên văn phòng phải ngồi nhiều trước máy tính, tư thế ngồi ít nhiều bị sai lệch và dễ mắc bệnh đau lưng, thoái hóa xương. 
Khi thực hiện động tác Plank, từ các bộ phận như lưng, chân, cổ đều đưa vào tư thế thẳng.

Người tập sẽ cải thiện các cơ bắp cốt lõi, tăng sự hỗ trợ cho cột sống và hông, duy trì tư thế đúng, giảm nguy cơ mắc các bệnh do sai tư thế, giảm đau lưng dưới.

Plank là động tác cơ bản, không cần dụng cụ và bạn có thể thực hiện ở bất kỳ đâu. Chỉ cần một không gian vừa phải, một mặt phẳng là bạn có thể tập.

Plank nở rộ trong các công sở vì tính đơn giản và hiệu quả mang lại thấy rõ chỉ sau 30 ngày tập. 
Hãy nhìn ngắm những hình ảnh hài hước vui nhộn khi tập plank trên toàn thế giới, để có động lực rằng bạn đã nên tập ngay tại công sở của mình bây giờ hay chưa.



Những lỗi thường gặp khi tập plank:

- Đẩy mông lên quá cao. Lưu ý rằng, cổ, lưng, và chân tạo thành đường thẳng, bạn hãy cố gắng giữ mông ở mức cho phép.
- Võng lưng khi plank, nên gồng chắc cơ bụng để lực tác động vào cơ bụng, không làm bạn bị đau lưng.
- Đặt hai tay quá gần nhau. Khi đó tác động lên cơ bả vai sẽ sai tác dụng.
- Nín thở. Nhiều người cố chú ý vào tư thế đúng và giữ lâu mà quên mất việc hít thở. Hãy hít thở đều và tập trung.
- Điều này không thấy bài nào đề cập nhưng thông thường không nên tập khi mới dùng bữa. 

(TTR tổng lược và viết lại) 

04 September 2025

Những Ngộ Nhận Phổ Biến Về Nhân Vật Lưu Vĩnh Phúc Trong Lịch Sử Thời Kháng Pháp Của Việt Nam

LÊ NGUYỄN

Trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do tác động của sách báo được thực dân Pháp phổ biến mà không ít sách giáo khoa và phương tiện truyền thông của người Việt đã đưa ra nhiều sự kiện thiếu chính xác về nhân vật Lưu Vĩnh Phúc trong diễn biến lịch sử nước ta từ thập niên 1860 đến thập niên 1880, đồng thời cũng bỏ qua mối quan hệ của họ Lưu với nhiều chí sĩ Việt Nam hoạt động trên đất Tàu vào đầu thế kỷ XX. 

Viết về buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều người đã đồng hóa hoạt động của các đạo quân Cờ Đen, Cờ Trắng và Cờ Vàng và dành cho chúng các danh từ thảo khấu, thổ phỉ, giặc cướp … Nhận định này phù hợp với thực tế lịch sử những năm giữa thập niên 1860, nhưng đã không hoàn toàn chính xác kể từ năm 1868 trở đi, khi mà đạo quân Cờ Đen đã thần phục triều đình và hoạt động như một lực lượng cơ hữu của người Việt Nam.  Song, trước hết, xin nhắc qua nguyên nhân về sự hiện diện của các đạo quân này tại Việt Nam. 



I) THÁI BÌNH THIÊN QUỐC VÀ SỰ XUẤT HIỆN CÁC ĐẠO QUÂN THỔ PHỈ


Vào những năm cuối thập niên 1840, đất nước Trung Hoa rơi vào loạn lạc, nhiều nơi dân lâm vào cảnh đói kém, một số người nhân cơ hội này đứng lên, vận động quần chúng, xây dựng thế lực, chống lại triều đình. Đáng kể nhất là cuộc nổi dậy của Hồng Tú Toàn cùng một số thuộc hạ ở Quảng Tây.

Trong những năm tháng đầu tiên, lực lượng nổi dậy thắng lợi tại nhiều tỉnh thành, họ chiếm lấy Nam Kinh, đổi tên thành Thiên Kinh, kinh đô của Thái Bình Thiên Quốc trong “triều đại” của họ. Tình trạng giằng co giữa triều đình nhà Mãn Thanh và Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn kéo dài đến những năm đầu thập niên 1860. Mãi đến năm 1864, lực lượng triều đình dưới quyền các danh tướng Tăng Quốc Phiên,  Lý Hồng Chương mới đánh bại được Thái Bình Thiên Quốc, Hồng Tú Toàn tự tử.

Tuy nhiên, với một lực lượng quần chúng lên đến hàng triệu người tồn tại gần 15 năm, hậu quả của chiến tranh không thể giải quyết trong một ngày, một bữa, nó còn kéo theo nhiều hậu quả lâu dài. Dù thất bại, song nhiều đạo quân dưới quyền Hồng Tú Toàn vẫn tiếp tục hoạt động chống phá triều đình nhà Thanh. Họ lui dần về phía Nam và một lực lượng khá lớn dưới quyền tướng Ngô Côn đã xâm nhập vào hẳn lãnh địa Việt Nam, đáng kể nhất là các đạo quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng của Bàn Văn Nhị, và Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc.


Họ đã sử dụng miền Bắc Việt Nam làm nơi ẩn tránh sự truy đuổi của triều đình nhà Mãn Thanh, đồng thời nuôi quân, củng cố lực lượng bằng hình thức cướp bóc tại các địa phương họ trú đóng hay đi qua. Để chống lại giặc cướp có hiệu quả, triều đình Huế kêu gọi nhà Thanh cử quân sang phối hợp. Đây là chi tiết khiến có sự nhầm lẫn rằng nhà Thanh cử quân sang xâm chiếm nước ta vào thập niên 1860, tranh giành quyền lợi với thực dân Pháp. Người được Bắc Kinh cử sang nước ta phối hợp lâu dài trong việc tiễu phỉ là Đề đốc tỉnh Quảng Tây Phùng Tử Tài.
      Vào khoảng cuối năm 1867, đầu năm 1868, quân triều đình đạt được một thắng lợi quan trọng khi chấp nhận sự hàng phục của đạo quân Cờ Đen dưới quyền Lưu Vĩnh Phúc, một thủ lãnh quân sự mới hơn 30 tuổi (sinh năm 1837). Trách nhiệm đầu tiên mà triều đình giao cho họ Lưu là tiêu diệt hai đạo quân Cờ Trắng và Cờ Vàng. Ngay vào tháng 1 âm lịch năm 1868, ông ta đã nhận được lệnh tấn công đạo quân Cờ trắng của Bàn Văn Nhị tại Tuyên Quang.

Đây là bước ngoặt quan trọng của thủ lãnh quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc trong quá trình sát cánh cùng quân đội Việt Nam chống lại các đạo quân thổ phỉ khác, đồng thời góp phần gây cho thực dân Pháp những tổn thất nặng nề. Nó tách hẳn đạo quân Cờ Đen ra khỏi hàng ngũ của hai đạo quân thổ phỉ kia, song trong một thời gian dài, nhiều tư liệu lịch sử vẫn đồng hóa cả ba lực lượng trên như một.

Điều này phát xuất chủ yếu từ nhận định thiếu chính xác của các cây bút phương Tây về một lực lượng đã gây cho thực dân Pháp những tổn thất nặng nề. Cho dù trước năm 1868, Lưu Vĩnh Phúc và đạo quân Cờ Đen của ông ta từng có những hoạt động tác tệ, song không thể vì thế mà phủ nhận những đóng góp của họ trong quá trình hàng phục và hợp tác với quân triều đình.

Tháng 3 AL năm 1869, với sự phối hợp của đạo quân nhà Thanh do Phùng Tử Tài chỉ huy, quân triều đình và quân Cờ Đen đã đại thắng quân Cờ Vàng trong một trận đánh lớn tại Lào Cai và đánh bật họ ra khỏi căn cứ địa Hà Giang.

Dù hết lòng phục vụ triều đình nhà Nguyễn, song trong bước đầu, không phải họ Lưu đã nhận được sự tín nhiệm của vua Tự Đức và quần thần. Phải chờ sau một thời gian dài, ông ta mới được tin tưởng và giao nhiều trọng trách, cũng như nhận lấy nhiều ân sũng.


II) LƯU VĨNH PHÚC – NGƯỜI CÓ CÔNG HAY KẺ TỘI ĐỒ?

Như đã đề cập ở phần trên, triều đình nhà Nguyễn chấp nhận sự qui hàng của đạo quân Cờ Đen và sử dụng họ như một lực lượng cơ hữu của mình, song nhiều quan lại vẫn tỏ ra e dè, hoài nghi thiện chí hợp tác của họ. Tháng 10.1869, đã có chủ trương đưa đạo quân của Lưu Vĩnh Phúc qua khỏi biên giới Việt-Trung, trở về lãnh thổ Trung Quốc.

Tháng 8.1870, Đề đốc Phùng Tử Tài đề nghị cho Lưu Vĩnh Phúc về nước, Phúc sợ bị nhà Thanh truy sát, xin ở lại châu Bảo Thắng (tỉnh Lào Cai) để khai thác tài nguyên và hợp tác đánh giặc. Vua Tự Đức cho rằng “dùng người Man đánh người Man là một việc cần, Vĩnh Phúc vốn thù nhau với Hoàng Anh, nên khéo khích để dùng …”.

Đúng như lời nhà vua phán, nửa năm sau khi quân Cờ Đen được tiếp tục sử dụng, vào tháng 2 AL 1871, có tin Lưu Vĩnh Phúc đã giết chết Hoàng Sùng Anh, thủ lãnh đạo quân Cờ Vàng. Tỉnh thần Hưng Hóa đề nghị thưởng phẩm hàm cho Phúc, song tin chính xác cho hay, họ Hoàng chỉ bị thương trong trận đánh. 

Vị quan lại cao cấp của triều đình tại khu vực phía Bắc lúc bấy giờ là Lạng Bằng Ninh Thái Thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm. Họ Hoàng rất tín nhiệm Lưu Vĩnh Phúc, vào tháng 9 AL 1873, đã đề nghị triều đình cử họ Lưu làm Phòng ngự sứ (tòng ngũ phẩm), song vua Tự Đức không chấp thuận, chỉ đồng ý xuất bạc kho ra để ban thưởng.

Tháng 11.1873, một sĩ quan cao cấp Pháp là Đại úy Francis Garnier được cử ra Bắc với danh nghĩa bề ngoài là dàn xếp những rắc rối do tên lái buôn Jean Dupuis (Đồ Phồ Nghĩa) gây ra, kỳ thực nhằm thực hiện ý đồ tấn công thành Hà Nội, mở đường cho việc đánh chiếm các tỉnh miền Bắc.

Ngày 20.11.1873, Garnier ra lệnh tấn công thẳng vào thành, quân triều đình dưới sự chỉ huy của Khâm mạng đại thần NguyễnTri Phương chống trả quyết liệt, song trận chiến cũng sớm kết thúc trong ngày. Thiệt hại về phía Việt Nam khá nặng nề: cụ Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và mất sau đó, con trai cụ là phò mã Nguyễn Lâm tử trận…Thiệt hại của phía Pháp không đáng kể, và điều này cho thấy thực lực về quân sự giữa hai bên có sự chênh lệch quá lớn. 

Tuy nhiên, có một điều mà thực dân Pháp đã không ngờ tới. Hơn một tháng sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, ngày chủ nhật 21.12.1873, Francis Garnier dẫn một toán lính Pháp 12 người truy đuổi một nhóm quân Cờ Đen khiêu khích và chạy trốn tại khu vực Ô Cầu giấy thuộc phủ Hoài Đức. Không ngờ ông ta lọt vào ổ phục kích của địch. Garnier té vào một hố sâu đào sẵn, trong khi lính Cờ Đen ào tới. Ông ta rút cây súng lục bắn đến viên đạn cuối cùng, rồi chịu chết. Ngay lập tức, đầu của Garnier bị quân Cờ Đen cắt rời và mang đi 

Cái chết của viên sĩ quan từng lập nhiều công trạng này gây chấn động cả nước Pháp. Hàng chục năm sau, nhiều tượng đài, công trình tưởng niệm Francis Garnier được xây dựng trên khắp Đông Dương, và cả trên đất Pháp. Điều đó chứng tỏ sự tổn thất về nhân sự của Pháp là rất to lớn. Cùng tử trận với Garnier còn có một trung úy và một thiếu úy Pháp nữa 

Chiến công này của quân Cờ Đen dưới quyền Lưu Vĩnh Phúc đã giải tỏa phần lớn mối nghi ngờ của vua Tự Đức và triều thần đối với họ Lưu. Tháng 2 AL 1874,  nhà vua “chuẩn cho Lưu Vĩnh Phúc được nhắc bổ làm Phó Lãnh binh quân thứ ấy. Đoàn quân ấy từ quản đội trở xuống thưởng cho thăng 3 trật và thưởng tất cả binh dõng đi trận ấy bạc lạng và tiền (bạc 345 lạng, tiền 3.000 quan), là xét công đánh trận ở Cầu Giấy”. Với chức danh Phó lãnh binh, hàm tòng tam phẩm, từ thời điểm này, Lưu Vĩnh Phúc đã chính thức trở thành một quan lại trung cao cấp của triều đình Huế.

Điều trớ trêu là cái chết gây chấn động của Francis Garnier lại xảy ra trong lúc Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Tường, đại diện triều đình, và Đại úy hải quân Philastre, đại diện phía Pháp đang trên đường ra Hà Nội để dàn xếp mọi việc. Nghe được tin này, Philastre giận dữ, vỗ bàn và đùng đùng đòi quay trở lại.

Trước thái độ của viên quan Pháp, Nguyễn Văn Tường đã trổ tài biện luận sắc bén của ông để thuyết phục ông ta. Ông thong thả nói rằng “…trả lại thành (Hà Nội) để sớm định điều ước, là lệnh của quý tướng; lấy lại thành rồi sau mới nghị hòa là mệnh lệnh của vua nước tôi; bọn chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh ấy. Còn như Hà Nội giết An Nghiệp, cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương, đó đều là do sự không ngờ, cũng không phải là bọn chúng ta làm ra … sao bằng đưa thư ngay cho Hà Nội … hoặc được hỏi rõ duyên do An Nghiệp bị chết, rồi sau sẽ báo, há chẳng càng ổn ư”. 

Lý lẽ của ông Tường khiến Philastre dịu lại và đồng ý tiếp tục hành trình…

III) QUÂN CỜ ĐEN VÀ SỐ PHẬN CÁI ĐẦU CỦA ĐẠI TÁ HENRI RIVIÈRE

Nhờ tài biện giải khéo của Nguyễn Văn Tường, sự đổ vỡ đã không xảy ra, ông và Philastre tiếp tục hành trình ra Bắc để theo dõi tình hình tại chỗ. Cuối cùng hòa ước Nhâm Tuất 1874 ra đời, chủ yếu nhằm chính thức hóa một thực tế đã diễn ra từ năm 1867, đó là công nhận quyền kiểm soát của Pháp trên toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh. Mặt khác, Pháp trả lại các thành trì đã chiếm đóng tại miền Bắc và được tự do thông thương trên thủy lộ sông Hồng.     

Vào lúc này, đạo quân Cờ Đen dưới quyền Phó lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc tiếp tục truy kích đạo quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh. Tháng 8 AL 1874,  họ Lưu được nhà vua thăng Lãnh binh, hàm chánh tam phẩm. Hai tháng sau, vua y lời tâu của Thống đốc đại thần Hoàng Tá Viêm, thăng Lưu Vĩnh Phúc lên chức Đề đốc, hàm tòng nhị phẩm, ngang với Tham tri (Thứ trưởng), Tuần phủ (Tỉnh trưởng tỉnh nhỏ). 

Có thể nói vào thời điểm này, Lưu Vĩnh Phúc là cánh tay phục vụ đắc lực bậc nhất của Hoàng Tá Viêm tại nhiều tỉnh miền Bắc. Song song với việc tìm diệt đạo quân Cờ vàng, quân Cờ đen còn có những hoạt động khiến thực dân Pháp lo lắng. Họ kiểm soát dọc theo sông Hồng, dùng vũ khí ngăn chặn hay uy hiếp tinh thần nhiều người Pháp thông thương trên thủy lộ này khiến cho Soái phủ Nam kỳ rất bức xúc.

Trong tình thế đó, Thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ là Le Myre de Vilers quyết định dùng áp lực quân sự để phá thế bế tắc giữa hai bên. Ông ta cử Đại tá Henri Rivière  dẫn vài trăm quân đi tàu ra Bắc vào đầu tháng 4.1882. Việc tiếp xúc giữa Rivière và các quan chức Việt Nam đứng đầu là Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu không dẫn đến kết quả mong muốn, viên Đại tá Pháp cho rằng phía Việt Nam không có thiện chí giải quyết vấn đề và quyết định tấn công thành Hà Nội vào ngày 25.4.1882. Thêm một lần nữa, chỉ sau mấy tiếng đồng hồ chiến đấu, thành lại rơi vào tay giặc. 

Gần một tháng sau, lịch sử lại tái diễn. Ngày 19.5.1883, Đại tá Pháp Henri Rivière cũng bị quân Cờ Đen khiêu chiến và phục kích sát hại tại Ô Cầu giấy, nơi Đại úy Francis Garnier đã gục ngã cách đó 10 năm. 

**

Cũng như Garnier, sau khi bị tử thương tại Ô Cầu giấy, Đại tá Henri Rivière bị quân Cờ Đen cắt mất cái đầu cùng với 29 sỹ quan, binh lính Pháp, bỏ vào giỏ treo nơi công cộng cho mọi người chứng kiến và sau đó đem vùi lấp ở đâu không thấy các tài liệu lịch sử Việt Nam nói đến . 

Mãi về sau, người ta mới phát hiện trong hồi ký của Bonnal, nguyên công sứ Pháp tại Hà Nội, một đoạn mô tả chi tiết quá trình khai quật đầu và thi thể của Henri Rivière. Đoạn hồi ký này là phần phụ lục của tác phẩm Correspondance politique  du commandant Rivière au Tonkin (Avril 1882 – Mai 1883) (Thư từ chính trị của viên tư lệnh Rivière tại miền Bắc, từ tháng 4.1882 đến tháng 5.1883) do André Masson tập hợp, chú thích và xuất bản cùng lúc tại Hà Nội và Paris năm 1933.

Ngày 17.9.1883, tức gần 4 tháng sau ngày Rivière tử trận, Bonnal được lệnh chứng kiến cuộc khai quật tử thi đầu tiên với tư cách viên chức hộ tịch. Theo sự chỉ dẫn của một số giáo dân Thiên chúa giáo khu vực phủ Hoài Đức, họ đã đến làng Ké Mai thực hiện cuộc đào tìm. Chỉ sau vài nhát cuốc, họ phát hiện một chiếc hộp bằng cây sơn đen tình trạng còn tốt. Viên bác sĩ Masse trong đoàn khai quật đã tự tay bật nắp chiếc hộp và những người chứng kiến nhìn thấy giữa lớp đất sét đỏ là một chiếc đầu người đã thối rữa một phần thịt. 

Căn cứ vào những lọn tóc dài đã ngã màu hoa râm, họ nhận ra đúng là chiếc đầu của Rivière. Trong hộp cây, còn có những đốt xương bàn tay, chứng tỏ 2 bàn tay của Rivière cũng bị chặt đứt, bỏ chung với đầu lâu. Sau đó, đoàn khai quật moi tìm từ lớp sình của một khu ruộng, tìm được 28 chiếc đầu lâu khác đã bị quân Cờ Đen vứt đi sau thời gian trưng bày.     

20 ngày sau, Bonnal tiếp tục cho tìm phần thi thể còn lại của H. Rivière. Trong biên bản ngày 8.10.1883, ông ta mô tả khá tỉ mỉ kết quả khai quật và một dấu hiệu cho phép khẳng định đã tìm được thi thể của Rivière, đó là 2 chữ H.R. thêu trên tấm vải che ngực và những cánh tay đã bị cắt mất bàn tay. Tất cả được cho vào một chiếc quan tài bằng cây rất dày, phủ vôi bột và chở về Hà Nội 

Sau một buổi lễ  được tổ chức tại nhà thờ tạm của đoàn truyền giáo Pháp tại Hà Nội, đầu cùng thi thể của H. Rivière và của các sĩ quan, binh sĩ dưới quyền được cải táng ở nghĩa trang dành cho người Pháp ở thành phố này.

 
IV) TỪ ĐỈNH VINH QUANG ĐẾN BI KỊCH, CON ĐƯỜNG KHÔNG XA

Phải khách quan thừa nhận rằng trong hai trận đánh ở Ô Cầu giấy năm 1873 và năm 1883 có công lao rất lớn của quân Cờ Đen. Tổ chức này đã chuyển mình từ những thổ phỉ trong thời gian đầu mới trốn sang Việt Nam thành một đội quân tinh nhuệ dưới quyền điều động của quan binh Việt Nam và đã làm quân Pháp lắm phen mất ăn mất ngủ.

Từ thời điểm này, mọi nghi ngờ của vua Tự Đức và triều thần đối với Lưu Vĩnh Phúc đã tan biến hẳn. Sau khi đạo quân Cờ Đen  của họ Lưu loại trừ được viên đại tá Pháp, “ Tin thắng trận tâu lên. Vua mừng lắm, thưởng Vĩnh Phúc thăng thụ Đề đốc, cho mũ áo Chánh nhị phẩm, gia thưởng một cái kim có chữ ‘trung dũng’…”. Hai tháng sau, nhà vua lại ban cho họ Lưu tước Nghĩa Lương nam.

Tuy nhiên, đúng 2 tháng sau sự kiện tiêu diệt H. Rivière, ngày 19.7.1883, vua Tự Đức qua đời, việc triều chính bắt đầu rối nát do sự phân hóa trong hàng ngũ triều thần và sự lộng quyền của hai Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Người được vua Tự Đức chỉ định kế vị là ông hoàng Dục Đức chỉ ở ngôi mấy ngày, chưa kịp làm lễ tấn tôn; người kế vị tiếp theo là vua Hiệp Hòa cũng bị bức tử sau 4 tháng làm vua.

Trong thời gian vua Hiệp Hòa còn tại vị, ngày 25.8.1883, hai phía Việt-Pháp đã ký Hòa ước Quý Mùi (còn gọi là Hòa ước Harmand, theo tên viên chức đại diện phía Pháp). Hòa ước có 27  khoản,  đặc biệt khoản 23 ghi rõ “…Nước Pháp sẽ một mình mang lấy trách nhiệm  đuổi quân Cờ đen ra khỏi Bắc Kỳ và dùng các biện pháp để bảo đảm an ninh và tự do trên sông Hồng Hà”. Điều này cho thấy thực dân Pháp kiêng dè quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến mức nào!

Song, việc triều đình Huế đặt bút ký hòa ước có điều khoản trên có nghĩa là họ mặc nhiên chấp nhận từ bỏ việc sử dụng quân Cờ Đen như một lực lượng cơ hữu của mình. Họ không thể công khai điều động lực lượng này, song cũng giống như trường hợp hòa ước Nhâm Tuất 1862 và sự tồn tại của tổ chức kháng chiến Trương Định, triều đình tiếp tục nuôi dưỡng và hỗ trợ đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc.

Một năm sau, ngày 6.6.1884, hai phía Việt-Pháp lại ký Hòa ước Giáp Thân, mở đường cho việc thuộc địa hóa toàn diện đất nước Việt Nam. Hòa ước này không nhắc đích danh quân Cờ Đen, song điều thứ 15 cũng ghi rõ là quân Pháp được đóng binh ở bất cứ nơi nào xét thấy cần (Nguyễn Phương – sđd – trang 220). 

Trong thời gian này, những cuộc đụng độ trực tiếp giữa quân Pháp và các lực lượng chính quy do nhà Thanh phái đến nhằm phối hợp với triều đình Việt Nam trong việc tiễu phỉ trở nên ngày một nghiêm trọng. Cuộc xung đột được giải quyết bước đầu bằng Hòa ước Fournier ngày 11.5.1884 chỉ bao gồm 5 điều khoản ngắn ngủi, không đủ để đảm bảo một sự hòa giải đích thực. Các trận đánh lớn tiếp tục nổ ra, dẫn đến việc Pháp đánh chiếm Phúc Châu, thủ phủ của tỉnh Phúc Kiến, và bao vây đảo Đài Loan của Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là chiến tranh giữa hai phía đã được đẩy ra khỏi biên giới Việt Nam, xâm nhập vào đất Tàu.

Cuối cùng, vào ngày 9.6.1885, triều đình nhà Thanh phải đồng ý ký với Pháp một hòa ước lâu dài có tên là “Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại”, gọi tắt là Hòa ước Thiên Tân, lấy tên nơi ký kết văn kiện này. Ngay điều khoản thứ nhất của hòa ước này đã ghi rõ là Pháp giành quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để giải tán hay tống xuất các băng nhóm cướp bóc để đảm bào sự trị an. Về phần mình, nhà Thanh cam kết giải tán và trục xuất các băng nhóm đang trú ẩn ở các biên giới giáp với Việt Nam, không được gửi quân qua biên giới với Việt Nam 

Điều này có nghĩa là nhà Thanh phải từ bỏ mọi sự hỗ trợ hay hợp sức với đạo quân Cờ Đen trong việc chống Pháp. 



V) LƯU VĨNH PHÚC VÀ CÁC NHÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Khi trở về Trung Quốc, Lưu Vĩnh Phúc bỏ lại đạo quân Cờ Đen cho các thuộc tướng. Đó cũng là lúc mà cuộc xuất bôn của vua Hàm Nghi khỏi kinh thành Huế (5.7.1885) và  hịch Cần vương đã làm khởi phát nhiều cuộc khởi nghĩa của Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Cao … 

Các lãnh tụ Cần vương tìm cách liên lạc với đạo quân Cờ đen để gây thêm thanh thế, song mất Lưu Vĩnh Phúc, họ như rắn mất đầu, một số lấy việc cướp bóc để tồn tại và đó là thời điểm mà đạo quân này bị lên án mạnh nhất. Theo bộ sách của Pháp “Histoire militaire de l’Indochine française ”, đến ngày 23.3.1887, trong các cuộc hành quân tại Cao Bằng, Pháp vẫn còn ghi nhận sự hiện diện của các toán quân Cờ Đen.

Về phần Lưu Vĩnh Phúc, sau khi trở về Trung Quốc, ông được nhà Thanh cử làm Tổng binh Quảng Châu. Năm 1894, khi cuộc chiến tranh Trung-Nhật nổ ra, ông đang là Tổng binh đảo Đài Loan. Chiến tranh kết thúc một năm sau đó, thắng lợi nghiêng về phía Nhật Bản, nhà Thanh phải chấp nhận ký hòa ước Mã Quan (Shimonoseki) ngày 17.4.1895 giao đảo Đài Loan cho Nhật. Tuy nhiên, người đứng đầu đảo này là Đường Cảnh Tùng không tuân thủ hòa ước, công bố nước Cộng hòa Đài Loan với Lưu Vĩnh Phúc là Phó Tổng thống. Song trước sự tấn công mãnh liệt của quân Nhật, thế yếu, Lưu Vĩnh Phúc đã phài cải trang làm một người phụ nữ và trốn khòi Đài Loan.

Quay lại đại lục Trung Hoa, Lưu Vĩnh Phúc trở thành chỗ tựa cho các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động trên đất Tàu. Trong bài viết dài hơn 100 trang có nhan đề “Quelques précisions sur une période troublée de l’histoire d’Annam”, cây bút Pháp A. Delvaux có nhắc đến chi tiết vào tháng 3.1888, Lãnh sự Pháp tại Quảng Đông phát hiện Đề đốc Trần Xuân Soạn có mặt tại nhà Lưu Vĩnh Phúc. 

Năm 1900,  một nhà cách mạng Việt Nam là cụ Phan Bội Châu mưu tính tập hợp các nhà trí thức yêu nước trong một phong trào chống Pháp, với sự hỗ trợ của Lưu Vĩnh Phúc. Năm 1905, cụ đi gặp họ Lưu. Cụ cho rằng nếu không có Lưu “dân tộc chúng ta sẽ không có được một giọt máu nào để rửa cổ giặc”.

Nhà Lưu Vĩnh Phúc không chỉ là nơi tiếp đón cụ Phan Bội Châu, mà cả cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Thiện Thuật (hay Nguyễn Thuật). Riêng cụ Thuật là người ở lâu dài trong nhà họ Lưu.

Tháng 1.1907, sau khi từ Nhật về, cụ Phan Bội Châu lại đến nhà Lưu Vĩnh Phúc, nơi đây, cụ vạch ra kế hoạch Đông Du, đưa thanh niện Việt Nam sang Nhật du học. Thất bại trong việc thành lập một đạo quân chống Pháp, cụ Phan muốn biến người từng lãnh đạo đạo quân Cờ đen và các đồng chí của ông thành những nhân tố của một cuộc cách mạng chính trị.     

Cụ Phan Bội Châu là một trong những nhà cách mạng khả kính, vì vậy những gì cụ viết về Lưu Vĩnh Phúc là điều cần được chúng ta lưu tâm. Trong hồi ký “Phan Bội Châu niên biểu”, cụ Phan đã có những dòng sau đây về Lưu Vĩnh Phúc: “Thượng tuần tháng 8 đến Quảng Đông, thăm chào ông Lưu Vĩnh Phúc, nhân gặp được cụ Tam Tuyên tán lý xưa là cụ Nguyễn Thuật. Lưu tuổi gần 70 mà dung mạo quắc thước, khi vừa gặp chúng tôi, nói tới người Pháp thì vỗ tay trên án mà nói rằng: ‘Tả! tả! tả!’     
“Tôi nhân đó mà nhắc lúc quân Tây hai lần lấy thành Hà Nội, nếu không có quân Lưu đoàn, thì chắc quân ta không được giọt máu nào rơi ở cổ người giặc. Ôi, Lưu đoàn chẳng phải là một bậc anh hùng hay sao? Tôi lúc bấy giờ, cái lòng sung bái anh hùng hết sức dốc đổ vào Lưu …”

Sau Cách mạng Tân Hợi năm 1911, Lưu Vĩnh Phúc được cử làm Tổng trường dân đoàn Quảng Đông, tiếp tục công tác cho chế độ dân quốc đến ngày qua đời vì bệnh năm 1917.

Căn cứ vào các tư liệu trên, có thể thấy rằng vai trò của Lưu Vĩnh Phúc trong lịch sử kháng Pháp của Việt Nam thay đổi qua từng thời kỳ; thời kỳ trước năm 1868 là một kẻ cầm đầu thổ phỉ, thời kỳ từ 1868 đến 1885 là một quan lại triều đình Việt Nam, lập nhiều chiến công, được vua Tự Đức phong đến chức Đề đốc, hàm nhị phẩm, và thời kỳ từ 1885, bị hất ra khỏi guồng máy chiến tranh Việt-Pháp, quay về Trung Quốc, góp phần cải thiện đời sống xã hội của nước ông vào những thập niên 1890-1900 -1910.

Từ những thập niên qua, nhiều nhà viết sử Việt Nam đi theo lối mòn của các cây bút Pháp, vốn hận thù đạo quân Cờ đen từng sát hại hai sĩ quan ưu tú của họ, nên đã có những miêu tả và nhận định không công bằng đối với một người như Lưu Vĩnh Phúc. Đặt họ Lưu đúng vào vị trí đích thực của ông trong cuộc kháng chiến lâu dài của người Việt chúng ta là cách mang lại sự công bằng lịch sử, phù hợp với đạo lý do cha ông truyền lại.


LÊ NGUYỄN 

27 August 2025

Highland Moonlight, tranh A.C.La Nguyễn Thế Vĩnh

 


Trăng Cao Nguyên
Highland Moonlight
24x30 inch (61cmx76cm)
Oil on canvas, by
A.C.La Nguyễn Thế Vĩnh
*
Chia sẻ

Bây giờ tranh lại quay về cao nguyên rồi. 
Người từ thành phố bỏ ra đi mang theo giá vẽ lên cao nguyên bấy lâu nay mà đâu hề có ai hay, ai biết! Thảo nào mà ngày xưa đóng mãi ở cái vùng đèo heo gió hú đó. O đó bây giờ ra sao rồi nhỉ? Nào ai biết, ai hay!

Thật tội nghiệp cho cái đầu óc ngu si của mình! Ngồi ngắm mãi bức tranh mà vẫn không có đủ khả năng để hiểu rõ những gì tác giả muốn diễn tả trong nội tâm! Không lẽ nhờ tác giả giải nghĩa, đâu có ai rảnh chớ! Thôi thì tự tìm hiểu lấy vậy. 

Này nhé, O năm xưa giờ vẫn còn đẹp và ngoan hiền như ngày nào. Vẫn ở lại nơi quê nhà, một mình một bóng vò võ nhớ mong người, kẻ đã từng thề non hẹn biển từ lâu, lâu lắm rồi! Ngày nào cũng ra ngõ ngóng trông về nơi phương trời vô định để chờ mong thấy lại bóng hình hiên ngang của ai năm nào! Nhưng hỡi ơi, đã gần 50 mùa lá đổ, đã gần 50 x 12 lần con trăng khuyết lại con trăng tròn mà nào thấy lại được bóng dáng người năm xưa! O sàng gạo? Có thể! Nhưng gạo đâu thì O không thấy mà "ngắm giả" chỉ thấy được nỗi lòng nhung nhớ, hoài mong của nàng đặt vào đấy mà thôi! Trăng soi vào sàng. Trăng lan khắp không gian. Trăng soi đến tận lòng nàng và trăng làm cho lòng ai nổi sóng! Bầu không gian cũng nổi sóng. Đó có phải chăng sóng lòng của ai đó với sức gió bão cấp năm, cấp mười mà đã khiến cho không gian quanh đó cũng dậy ba đào!

Khen ai khéo gieo vào lòng "ngắm giả" nỗi bi thương qua sự diễn tả bằng tranh! Xin cảm ơn Ngài họa sĩ đã cho xem tranh và chia xẻ nỗi niềm!

H.H.
**

Tôi muốn là trăng

Tôi muốn là trăng hôn tóc em,
Là trăng ve vuốt tấm vai mềm,
Này em, sàng sẩy tình trăng ấy,
Em có mơ gì trong giấc đêm?
*
Tôi muốn là trăng, là gió êm,
Mơ màng sa xuống, đứng bên thềm,
Nơi có em đưa tôi vào mộng,
Giấc mộng trăng vàng bên Giáng Tiên!
*
Em là trăng, tôi mơ tình trăng?
Nhìn trăng lòng xuyến xao, bâng khuâng,
Cao Nguyên vằng vặc vầng trăng cũ,
Soi sáng một đời...Mơ giấc Tiên...

PtMH.

November 28, 2012 2:18 AM
Cô thôn nữ dưới ánh trăng thật mơ màng và quỵến rũ làm sao! Yêu trăng hay yêu nàng? Chắc là yêu cả hai, vì nàng là trăng và trăng cũng chỉ là em mà thôi!
  1. Tôi muốn là trăng hôn tóc em,
    Là trăng ve vuốt tấm vai mềm,
    Này em, sàng sẩy tình trăng ấy,
    Em có mơ gì trong giấc đêm?
    *
    Tôi muốn là trăng, là gió êm,
    Mơ màng sa xuống, đứng bên thềm,
    Nơi có em đưa tôi vào mộng,
    Giấc mộng trăng vàng bên Giáng Tiên!
    *
    Em là trăng, tôi mơ tình trăng?
    Nhìn trăng lòng xuyến xao, bâng khuâng,
    Cao Nguyên vằng vặc vầng trăng cũ,
    Soi sáng một đời...Mơ giấc Tiên...

    PtMH. 

    Reply
  2. Cô thôn nữ dưới ánh trăng thật mơ màng và quỵến rũ làm sao! Yêu trăng hay yêu nàng? Chắc là yêu cả hai, vì nàng là trăng và trăng cũng chỉ là em mà thôi!

    Reply

Yalta và Munich II – Lịch Sử Như Vòng Xoáy Ký Ức

Tác giả: NQB

Mở đầu: Lịch sử có lặp lại không? “L’Histoire se répète-t-elle ?” – Lịch sử có lặp lại không? Câu hỏi ấy vang vọng từ thế kỷ XIX cho đến hôm nay, vừa là suy tư của triết gia, vừa là nỗi ám ảnh của nhà chính trị, và cũng là tiếng thì thầm trong ký ức tập thể của nhân loại. Nó không đơn giản là một câu hỏi tu từ; nó là một thách thức đối với trí tuệ của con người khi đứng trước những ngã ba định mệnh của thời gian. Nếu lịch sử thật sự lặp lại, chúng ta có phải là những kẻ bất lực, chỉ biết tái diễn những sai lầm cũ? Hay lịch sử vốn không lặp lại, mà chính ký ức con người – với sự hữu hạn, ám ảnh và sợ hãi – đã khiến chúng ta nhìn hiện tại như tấm gương phản chiếu của quá khứ?

Hegel từng gợi ý rằng lịch sử vận động bằng biện chứng: mâu thuẫn nối tiếp mâu thuẫn, và cái mới ra đời từ sự phủ định cái cũ. Trong tầm nhìn ấy, không có sự “lặp lại” máy móc, nhưng những mô thức về quyền lực, tham vọng và chiến tranh luôn trở lại trong những hình thức khác nhau. Marx đi xa hơn, với câu châm biếm nổi tiếng: “Lịch sử lặp lại, lần đầu như bi kịch, lần thứ hai như hài kịch.” Ở đây, cái lặp lại không bao giờ.

Song song với Munich, còn một ký ức khác: Yalta 1945 – nơi Roosevelt, Churchill và Stalin chia thế giới thành vùng ảnh hưởng, dựng nên trật tự Chiến tranh Lạnh. Một bên là ký ức của ảo tưởng dẫn đến chiến tranh; một bên là ký ức của thỏa hiệp, tạo ra sự phân cực ổn định. Và ngày nay, trong khủng hoảng Ukraine, cả hai ký ức ấy đồng thời vang vọng: Munich như cảnh báo chống lại nhân nhượng, Yalta như khả thể về một sự chia cắt mới.

Lịch sử có lặp lại không? Có lẽ không theo nghĩa cơ học. Nhưng ký ức của Munich và Yalta, như những bóng ma, vẫn ám ảnh hiện tại. Chính ký ức ấy buộc nhân loại phải đối diện với câu hỏi muôn thuở: lặp lại lỗi lầm, hay học được bài học?

1: Thời gian, ký ức và lịch sử

Thời gian, trong nhãn quan cổ điển, từng được xem như một đường thẳng tuyến tính, trôi đều từ quá khứ sang hiện tại rồi đến tương lai, như dòng sông chảy không ngừng mà con người chỉ biết đứng trên bờ dõi theo. Newton hình dung thời gian là tuyệt đối, độc lập với không gian và sự kiện. Nhưng thế kỷ XX, với Einstein và thuyết tương đối, đã làm tan vỡ ảo tưởng ấy: thời gian có thể co giãn, uốn cong, phụ thuộc vào vận tốc và trọng lực. Cái từng được xem như dòng chảy bất biến nay trở thành kết cấu mềm dẻo của vũ trụ. Từ vật lý, hình ảnh ấy mở rộng sang triết học: thời gian không còn là một đường thẳng, mà là một đường cong, một vòng xoắn, một tấm gương nơi ký ức đọng lại và vọng về.

Henri Bergson từng cho rằng thời gian thật sự của con người không phải là chuỗi khoảnh khắc rời rạc như trên đồng hồ, mà là la durée – “thời gian sống động”, gắn liền với kinh nghiệm nội tâm và ký ức. Với Bergson, ký ức không chỉ lưu trữ quá khứ, mà còn làm cho quá khứ sống lại trong hiện tại, định hình cách ta cảm nhận thế giới. Thời gian cong, vì vậy, chính là ký ức: mỗi khi ký ức trỗi dậy, quá khứ uốn cong và va chạm vào hiện tại, khiến ta cảm thấy như đang sống lại một lần nữa.

Trong sử học, Maurice Halbwachs phát triển khái niệm ký ức tập thể, cho rằng ký ức của mỗi cá nhân luôn được nuôi dưỡng và định hình trong khung cảnh xã hội. Paul Ricoeur sau này gọi ký ức là “vết hằn của quá khứ trên hiện tại”, một thứ ám ảnh không thể xóa bỏ. Chính vì thế, lịch sử không bao giờ đơn thuần là một chuỗi sự kiện khách quan, mà luôn là lịch sử đã được ký ức hóa. Ta nhìn về Munich hay Yalta không chỉ như sự kiện, mà như ký ức ám ảnh, định hình phản ứng chính trị và nỗi sợ hãi của ngày hôm nay.

Khi nói “lịch sử lặp lại”, thực ra ta đang nói đến ký ức trở lại. Sự kiện không bao giờ tái diễn nguyên vẹn: không có Chamberlain thứ hai, cũng không có Hitler thứ hai. Nhưng ký ức về Chamberlain và Hitler có thể trở lại trong bóng dáng Trump và Putin, khiến ta đọc hiện tại bằng ngôn ngữ của quá khứ. Đó là cái mà Twain gọi là “vần điệu” của lịch sử: không phải sự tái bản, mà là cộng hưởng ký ức.

Do đó, lịch sử không phải vòng tròn khép kín, mà là vòng xoáy ký ức. Nó tiến lên như một đường xoắn ốc: mỗi vòng quay đưa nhân loại đến một cao độ mới, một bối cảnh mới, nhưng ký ức của vòng trước vẫn để lại dấu ấn, khiến ta tưởng như đang lặp lại.

Munich II, nếu xảy ra, sẽ không phải Munich 1938, nhưng ký ức của Munich 1938 sẽ biến nó thành “Munich mới” trong mắt thế giới. Yalta mới, nếu được hình thành, sẽ không phải Yalta 1945, nhưng ký ức của Yalta 1945 sẽ phủ bóng lên nó như định nghĩa sẵn luật chơi.

Khái niệm “vòng xoáy ký ức” được sử dụng trong bài này không chỉ như một ẩn dụ tu từ, mà còn là một luận đề triết học trung tâm trong tác phẩm The Testament – Book I của Pierre Nguyen. Trong đó, tác giả bác bỏ quan niệm tuyến tính về thời gian, vốn được biểu trưng bằng “Mũi tên thời gian” của Stephen Hawking. Thay vào đó, ông đề xuất một quan niệm khác: thời gian không phải là một đường thẳng, mà là một vòng xoáy ký ức.

Cong không–thời gian, với mọi sự kiện, mọi di tích, mọi ký ức lịch sử, không biến mất mà được cuộn xoáy, gấp lớp và tái hiện ở những tầng khác nhau của lịch sử nhân loại.

Nhìn từ viễn tượng ấy, Munich, Yalta, Genève hay Ukraine hôm nay đều không phải là những điểm tách biệt, mà là những nhịp ngân vang khác nhau của cùng một chuỗi xoáy, nơi ký ức quá khứ trở lại, không bao giờ trùng khít, nhưng luôn gợi nhắc và dẫn dắt vận mệnh nhân loại.

Nói cách khác: cong thời gian là ký ức, và lịch sử lặp lại chính là ký ức trỗi dậy. Không phải quá khứ quay trở lại, mà ký ức khiến hiện tại vang vọng quá khứ. Và đó chính là vòng xoáy mà nhân loại không bao giờ thoát khỏi: ta không sống lại lịch sử, nhưng ta sống trong ký ức của lịch sử.

2: Munich 1938 – Bi kịch của sự nhân nhượng 

Munich 1938 đã trở thành một trong những từ khóa ám ảnh nhất của thế kỷ XX. Nó không chỉ là một hội nghị quốc tế diễn ra tại thành phố Munich, nơi các cường quốc châu Âu ký hiệp định với Hitler, mà còn là biểu tượng bất diệt của một sai lầm chính trị: tin rằng có thể ngăn chặn chiến tranh bằng cách dâng hiến lãnh thổ cho kẻ xâm lược.

Khi Thủ tướng Anh Neville Chamberlain trở về London, giơ cao tờ hiệp định và tuyên bố rằng ông đã mang lại “peace for our time”, đám đông đã reo hò trong một cơn lạc quan ngắn ngủi. Nhưng chỉ một năm sau, Hitler xâm lược Ba Lan, và châu Âu bùng nổ trong biển lửa của Thế chiến II. Munich, từ đó, đi vào ký ức tập thể như đồng nghĩa với ảo tưởng hòa bình.

Cái bi kịch của Munich nằm ở chỗ: nó không phải là sự hèn nhát, mà là sự lựa chọn trong sợ hãi. Sau Thế chiến I, châu Âu còn đầy vết thương: hàng triệu người chết, kinh tế tan hoang, xã hội kiệt quệ. Không ai, kể cả những chính trị gia mạnh mẽ nhất, muốn lặp lại thảm kịch ấy. Chamberlain và Daladier (Pháp) tin rằng nhượng bộ Hitler một phần – vùng Sudetenland của Tiệp Khắc – có thể cứu lấy hòa bình. Nhưng chính trong nỗi sợ chiến tranh, họ đã gieo mầm cho một cuộc chiến còn khốc liệt hơn.

Munich không chỉ là một biến cố ngoại giao, nó còn là tấm gương của tâm lý chính trị: khi sợ hãi lấn át lý trí, khi ký ức về thảm họa quá khứ khiến người ta sẵn sàng trao quyền cho kẻ hung hãn, chỉ để mua lấy một khoảng lặng ngắn ngủi. Cái sai của Chamberlain không phải ở thiện chí hòa bình, mà ở ảo tưởng rằng kẻ xâm lược có thể bị thỏa mãn. Trong thực tế, nhượng bộ chỉ củng cố tham vọng, và sự nhân nhượng trởthành khởi đầu của thảm họa.

Triết học lịch sử nhìn Munich như một trường hợp điển hình của “sai lầm biện chứng”: một hành động nhằm tránh mâu thuẫn lại tạo ra mâu thuẫn lớn hơn. Như Hegel từng nói, phủ định cái phủ định không phải là xóa bỏ, mà là nâng mâu thuẫn lên một tầm cao mới. Munich là sự “phủ định” chiến tranh bằng nhượng bộ, nhưng kết quả lại là chiến tranh bùng nổ toàn diện, dữ dội hơn, triệt để hơn.

Chamberlain trở thành biểu tượng của một nhà lãnh đạo lạc lối trong lịch sử. Ông không phải kẻ độc ác, không phải kẻ ngông cuồng, mà là kẻ thiện chí bị trói buộc bởi ký ức của quá khứ và sự mù lòa trước hiện tại. Trong mắt lịch sử, Chamberlain không phải hình ảnh của một chính khách khôn ngoan, mà là bóng ma của một sai lầm lặp lại: tin vào hòa bình khi hòa bình đã bị đánh cắp từ căn bản.

Chính vì vậy, mỗi khi thế giới đứng trước một khủng hoảng quốc tế, ký ức Munich lại trỗi dậy. Nó trở thành phép so sánh tự nhiên, lời cảnh báo ngầm: đừng lập lại Munich. Và hôm nay, với Ukraine, từ “Munich II” đã xuất hiện, gợi ý rằng nếu phương Tây – đặc biệt là Mỹ – ép buộc Kyiv nhượng lãnh thổ cho Moscow, lịch sử sẽ lại gieo cùng một vần điệu. Không phải vì thế giới 2025 giống hệt 1938, mà vì ký ức Munich khiến ta nhận ra mô thức: nhượng bộ kẻ xâm lược không ngăn được chiến tranh, nó chỉ mua thời gian để thảm họa nổ ra lớn hơn.

Munich 1938, vì thế, không chỉ là một sự kiện. Nó là một ký ức mang tính cấu trúc, một biểu tượng của sai lầm mà nhân loại cứ phải nhắc lại trong ký ức chính trị của mình. Và bi kịch lớn nhất không phải ở chỗ Chamberlain đã sai, mà ở chỗ: con người hôm nay vẫn còn nguy cơ tiếp tục lặp lại sai lầm ấy, dưới những cái tên khác, trong những bối cảnh khác.

3: Yalta 1945 – Sự thỏa hiệp của chia cắt 

Nếu Munich 1938 là biểu tượng của sự nhân nhượng tai hại, thì Yalta 1945 lại mang một sắc thái khác: biểu tượng của thỏa hiệp thực dụng. Tháng 2 năm 1945, khi Thế chiến II sắp kết thúc, ba nhà lãnh đạo Roosevelt (Mỹ), Churchill (Anh), và Stalin (Liên Xô) gặp nhau tại Yalta, một thành phố ven Biển Đen thuộc Crimea. Khác với Munich – nơi một quốc gia nhỏ (Tiệp Khắc) bị hy sinh trên bàn cờ của những kẻ mạnh – Yalta là bàn đàm phán của những kẻ chiến thắng, những người sắp định hình trật tự thế giới sau đại chiến.

Nội dung chính của Yalta là sự phân chia: nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng, Đông Âu rơi vào vòng ảnh hưởng của Liên Xô, trong khi Tây Âu do Mỹ và Anh giữ. Một tổ chức mới, Liên Hiệp Quốc, được thành lập với mục tiêu duy trì hòa bình tập thể. Kết quả ấy không đem lại một nền hòa bình toàn vẹn – thay vào đó, nó dựng lên bức màn sắt, mở đầu cho Chiến tranh Lạnh. Nhưng chính vì sự phân cực ấy, một loại hòa bình khác – hòa bình căng thẳng nhưng ổn định – đã tồn tại trong suốt gần nửa thế kỷ.

Điều khiến Yalta trở thành ký ức ám ảnh không phải vì nó đẹp đẽ hay cao thượng, mà vì nó thực dụng đến tàn nhẫn. Các quốc gia nhỏ ở Đông Âu bị đặt dưới quyền kiểm soát của Stalin, dân tộc bị bỏ rơi trong tay toàn trị, nhưng đổi lại thế giới tránh được nguy cơ một Thế chiến III ngay lập tức. Yalta không phải hòa bình, nhưng nó là khoảng dừng của hỗn loạn, là sự sắp xếp tạm bợ nhưng hiệu quả để nhân loại có thể tái thiết.

Trong triết học chính trị, Yalta là minh chứng cho “nghệ thuật của cái khả dĩ” (l’art du possible): trong thế giới không hoàn hảo, đôi khi lựa chọn tối ưu không phải là công lý tuyệt đối, mà là sự cân bằng đủ để tránh tận diệt. Nếu Munich là bài học của ảo tưởng, thì Yalta là bài học của sự tỉnh táo lạnh lùng: không ai có thể thắng tất cả, nên phải chia phần để cùng tồn tại.

Churchill, với con mắt bi quan truyền thống, từng nói rằng ông “không tin Stalin một tấc nào”, nhưng ông vẫn ký vào thỏa thuận, bởi ông hiểu rằng sự lựa chọn còn lại tồi tệ hơn: tiếp tục chiến tranh với Liên Xô ngay sau khi Đức Quốc Xã sụp đổ. Roosevelt, đang bệnh nặng, tin rằng Liên Hiệp Quốc có thể là nơi hóa giải căng thẳng, nhưng thực tế chứng minh: Yalta không ngăn được đối đầu, nó chỉ định nghĩa đối đầu trong khuôn khổ mới – Chiến tranh Lạnh.

Yalta trở thành ký ức đối trọng với Munich. Nếu Munich là ảo tưởng hòa bình dẫn đến đại chiến, thì Yalta là thỏa hiệp chia cắt dẫn đến hòa bình lạnh. Một bên là ký ức của sự lầm lạc; một bên là ký ức của sự thực dụng. Và trong ký ức tập thể của nhân loại, Munich và Yalta tồn tại như hai cực: một cảnh báo, một gợi ý. Cảnh báo rằng nhân nhượng sẽ nuôi dưỡng thảm họa, gợi ý rằng chia cắt có thể trì hoãn hỗn loạn.

Ngày nay, khi thế giới nói về “Munich II” hay “Yalta mới” trong khủng hoảng Ukraine, chính là ký ức của hai thời khắc ấy đang vang vọng trở lại. Munich trỗi dậy như bóng ma của sai lầm; Yalta trỗi dậy như bóng ma của sự chia cắt. Cả hai đều không đem lại công lý, nhưng một bên dẫn đến tận diệt, một bên giữ lại một không gian cho sự sống còn.

4: Munich II và Yalta mới – Ký ức trỗi dậy trong hiện tại

Khi Nga sáp nhập Crimea năm 2014, rồi mở cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine năm 2022, lập tức ký ức Munich 1938 vang vọng. Sự nhân nhượng trước một cường quốc hiếu chiến – dù với danh nghĩa hòa bình – đã từng dẫn thế giới vào thảm họa. Nhiều nhà phân tích gọi việc một số lãnh đạo phương Tây tỏ ra do dự, chần chừ trước yêu sách của Moscow là một “Munich II”. Hình ảnh Chamberlain với tờ giấy cam kết “hòa bình trong thời đại chúng ta” trở lại như một lời nhắc cay đắng: sự yếu đuối và ảo tưởng hòa bình chỉ khuyến khích kẻ xâm lược tiến xa hơn.

Nhưng đồng thời, một ký ức khác cũng trỗi dậy: ký ức Yalta. Cuộc chiến ở Ukraine không chỉ là tranh chấp biên giới, mà là cuộc đối đầu về cấu trúc thế giới. Nga đòi tái lập phạm vi ảnh hưởng như Liên Xô từng có, trong khi Mỹ và châu Âu khẳng định quyền tự quyết của các quốc gia nhỏ. Giống như năm 1945, câu hỏi lại đ phân chia quyền lực như thế nào? Liệu sẽ có một “Yalta mới” – một sự thỏa hiệp ngầm, phân vùng ảnh hưởng để duy trì một loại hòa bình căng thẳng?

Munich II và Yalta mới, vì thế, là hai kịch bản đối nghịch đang song hành trong tưởng tượng chính trị hiện tại. Một bên, nguy cơ lặp lại sai lầm cũ: nhượng bộ Nga, để rồi Ukraine trở thành Tiệp Khắc mới – hi sinh để “mua hòa bình” nhưng chỉ gieo mầm cho hỗn loạn lớn hơn. Bên kia, khả năng tái lập một trật tự phân chia – Ukraine bị chia cắt, một phần rơi vào ảnh hưởng Nga, một phần được bảo hộ bởi phương Tây – như cái giá của một nền hòa bình lạnh. 

Ở đây, lịch sử như vòng xoáy ký ức: Munich và Yalta không còn là những chương khép lại, mà trở thành những mẫu hình (patterns) ám ảnh hiện tại. Người ta tranh luận không ngừng: nếu đi theo Munich, ta gieo tai họa; nếu đi theo Yalta, ta chấp nhận bất công. Giữa hai ký ức ấy, thế giới tìm lối thoát nhưng chưa có câu trả lời.

Trong vòng xoáy này, vấn đề Ukraine trở thành tấm gương soi chính bản chất của trật tự quốc tế: liệu công lý có thể tồn tại trong quan hệ giữa các quốc gia, hay chỉ có sự thỏa hiệp của sức mạnh? Munich trả lời: công lý bị chôn vùi dưới ảo tưởng. Yalta trả lời: công lý bị hy sinh cho cân bằng. Và câu hỏi hôm nay là: liệu có một con đường thứ ba – vừa tránh được ảo tưởng, vừa vượt khỏi chia cắt – hay lịch sử buộc nhân loại phải lặp lại hai khuôn mẫu cũ trong biến thể mới?

5: Lịch sử như vòng xoáy ký ức – từ Hegel, Marx, Twain đến Ukraine

Câu hỏi “L’Histoire se répète-t-elle?” không chỉ là một suy tư triết học, mà là một nỗi ám ảnh tập thể. Từ Hegel đến Marx, rồi đến Twain, lịch sử được nhìn qua ba lăng kính khác nhau: Hegel thấy trong lịch sử một sự biện chứng, nơi tinh thần thế giới (Geist) tiến lên qua những biến cố; Marx nhìn thấy quy luật kinh tế – xã hội, nơi bi kịch lặp lại như trò hề; còn Twain thì châm biếm rằng lịch sử không lặp lại, nó chỉ gieo vần – những âm vang giống mà không trùng.

Ukraine hôm nay là một minh chứng sống động cho ba tiếng vọng ấy. Trong lăng kính

Hegel, ta thấy sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc và ý chí tự do – một dân tộc nhỏ thách thức một đế quốc khổng lồ, khẳng định quyền tồn tại của mình. Trong lăng kính Marx, ta thấy sự xung đột giữa các hình thái quyền lực: một bên là mô hình dân chủ – thị trường, bên kia là nhà nước chuyên chế dựa trên tài nguyên và vũ lực. Và trong lăng kính Twain, ta nghe âm vang Munich và Yalta, không phải bản sao, mà là vần điệu méo mó trong một khúc ca quen thuộc: sự nhân nhượng, sự phân chia, và nỗi bất an của châu Âu.

Nếu coi thời gian như một đường thẳng, ta sẽ thấy lịch sử không ngừng tiến tới; nhưng nếu coi thời gian như một vòng xoáy ký ức, ta hiểu rằng quá khứ không mất đi – nó trở ại, biến hình, và ám ảnh. Munich 1938 và Yalta 1945 không còn chỉ là những trang sử cũ, mà là những ký ức đang sống, chi phối hành vi con người và quyết sách quốc gia.

Chúng trỗi dậy trong mỗi khủng hoảng, như những bóng ma dẫn lối hoặc cản đường.

Thế chiến II từng dạy nhân loại rằng nhân nhượng trước cái ác chỉ dẫn tới thảm họa, và rằng hòa bình đạt được bằng chia cắt cũng chỉ là tạm bợ. Nhưng ký ức ấy không đủ để ngăn ta khỏi đứng trước cùng một ngã ba đường. Có lẽ đó chính là bản chất của lịch sử: một vòng xoáy nơi ký ức trở thành hiện tại, và nơi con người phải không ngừng học lại bài học đã từng quên.

Ukraine, trong ý nghĩa này, không chỉ là chiến trường, mà là tấm gương của ký ức nhân loại. Nó đặt lại câu hỏi xưa: công lý và hòa bình có thể song hành không? Và nếu không, ta sẽ chọn lặp lại Munich, lặp lại Yalta, hay tìm một con đường chưa từng có?

6: Kết luận: Lời cảnh tỉnh từ Munich II đến nguy cơ hạt nhân

Nếu Munich 1938 là bi kịch của sự nhân nhượng và Yalta 1945 là bi kịch của sự chia cắt, thì Ukraine hôm nay đang đối diện nguy cơ trở thành Munich II – nơi lãnh thổ bị đem ra mặc cả – hoặc một Yalta mới – nơi số phận một dân tộc được định đoạt trong những căn phòng kín, không có họ ngồi ở bàn thương lượng.

Nhưng lần này, bi kịch có thể không dừng lại ở những ranh giới quốc gia. Nhân loại bước vào thế kỷ XXI với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, với trí tuệ nhân tạo tham gia vào chiến lược quân sự, với truyền thông toàn cầu biến mọi quyết định thành những phản ứng dây chuyền tức thời. Một sai lầm nhỏ có thể kích hoạt chuỗi domino dẫn đến Thế chiến III. Và khác với mọi cuộc chiến trước đây, cuộc chiến này mang theo nguy cơ diệt chủng toàn cầu.

Các cuộc diệt chủng thế kỷ XX – Armenia, Holocaust, Rwanda, Campuchia – đều là những vết thương loài người gây ra cho chính mình, nhưng vẫn còn trong giới hạn của một khu vực, một dân tộc. Nếu Thế chiến III nổ ra với vũ khí hạt nhân, toàn thể nhân loại sẽ là nạn nhân. Lần đầu tiên trong lịch sử, diệt chủng không còn là số phận của một cộng đồng, mà là khả năng tuyệt diệt của loài người.

Trong bối cảnh ấy, ký ức lịch sử không chỉ là bài học, mà là hệ thống cảnh báo sớm. Hegel nói lịch sử dạy ta bằng lý trí, Marx cảnh báo ta về quy luật quyền lực, Twain nhắc ta rằng những vần điệu quá khứ vẫn ngân vang. Câu hỏi là: liệu chúng ta có đủ trí tuệ để lắng nghe?

Ukraine hôm nay chính là phép thử. Nếu nhân loại một lần nữa sa vào cám dỗ của sự nhân nhượng hoặc chia cắt, chúng ta sẽ bước gần hơn tới thảm họa. Nhưng nếu dám rút ra từ ký ức sức mạnh hành động – hành động để bảo vệ công lý, nhân phẩm, và hòa bình thực sự – thì lịch sử, thay vì lặp lại bi kịch, có thể mở ra một chương mới.

Nếu Munich 1938 là bi kịch của sự nhân nhượng và Yalta 1945 là bi kịch của sự chia cắt, thì Ukraine hôm nay đang đối diện nguy cơ trở thành Munich II – nơi lãnh thổ bị đem ra mặc cả – hoặc một Yalta mới – nơi số phận một dân tộc được định đoạt trong những căn phòng kín, không có họ ngồi ở bàn thương lượng.

Nhưng lần này, bi kịch có thể không dừng lại ở những ranh giới quốc gia. Nhân loại bước vào thế kỷ XXI với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, với trí tuệ nhân tạo tham gia vào chiến lược quân sự, với truyền thông toàn cầu biến mọi quyết định thành những phản ứng dây chuyền tức thời. Một sai lầm nhỏ có thể kích hoạt chuỗi domino dẫn đến Thế chiến III. Và khác với mọi cuộc chiến trước đây, cuộc chiến này mang theo nguy cơ diệt chủng toàn cầu.

Các cuộc diệt chủng thế kỷ XX – Armenia, Holocaust, Rwanda, Campuchia – đều là những vết thương loài người gây ra cho chính mình, nhưng vẫn còn trong giới hạn của một khu vực, một dân tộc. Nếu Thế chiến III nổ ra với vũ khí hạt nhân, toàn thể nhân loại sẽ là nạn nhân. Lần đầu tiên trong lịch sử, diệt chủng không còn là số phận của một cộng đồng, mà là khả năng tuyệt diệt của loài người.

Hơn nữa, ký ức của sự nhượng bộ lãnh thổ không chỉ ám ảnh châu Âu. Thế kỷ XX cũng chứng kiến những hiệp định chia cắt để mua lấy hòa bình tạm bợ: Bán đảo Triều Tiên bị phân đôi vĩnh viễn sau 1953, tạo ra hai quốc gia đối địch trong căng thẳng bất tận. Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam, dẫn đến sự thất bại thảm khốc của Mỹ và phương Tây, và mở đường cho một chế độ cộng sản độc đảng mang dấu ấn toàn trị kiểu Stalin.

Những thỏa hiệp ấy, trên danh nghĩa hòa bình, thực chất chỉ gieo hạt giống của đối đầu lâu dài, xung đột dai dẳng và những hệ thống chính trị phản dân chủ.

Trong bối cảnh ấy, ký ức lịch sử không chỉ là bài học, mà là hệ thống cảnh báo sớm.

Hegel nói lịch sử dạy ta bằng lý trí, Marx cảnh báo ta về quy luật quyền lực, Twain nhắc ta rằng những vần điệu quá khứ vẫn ngân vang. Câu hỏi là: liệu chúng ta có đủ trí tuệ để lắng nghe?

Ukraine hôm nay chính là phép thử. Nếu nhân loại một lần nữa sa vào cám dỗ của sự nhân nhượng hoặc chia cắt, chúng ta sẽ bước gần hơn tới thảm họa. Nhưng nếu dám rút ra từ ký ức sức mạnh hành động – hành động để bảo vệ công lý, nhân phẩm, và hòa bình thực sự – thì lịch sử, thay vì lặp lại bi kịch, có thể mở ra một chương mới.

Lịch sử như vòng xoáy ký ức nhắc ta: quá khứ luôn trở lại. Nhưng nhân loại có quyền lựa chọn: biến vòng xoáy ấy thành vòng lặp định mệnh, hay thành đường xoáy ốc đi lên của trí tuệ và nhân bản./.

NQB

24 August 2025

Nắng Lẻ Chiều Thu, thơ

Dạo: 
Lạnh lẽo bóng chiều thu,
    Quê xưa vẫn mịt mù.
    Phù du tia nắng lẻ,
    Nhớ tiếng mẹ hiền ru.
                      **

Nắng Lẻ Chiều Thu

    
 Dải nắng muộn uốn qua lòng suối,
     Nhánh rong già tiếc nuối bâng quơ.
          Cây khô rải lá hững hờ,
Mây say say gió, núi mờ mờ sương.

     Thân lưu lạc hồn nương bóng cỏ,
     Gót chân đau kiếm ngõ quay về.
          Một đời vướng víu cơn mê,
Giật mình chẳng biết trời quê chốn nào.

     Đêm vỡ giấc lao chao đèn gió,
     Bóng ngày thơ lấp ló bên giường.
          Cắn răng làm kẻ qua đường,
Vu vơ tiếng lá, vấn vương dấu giày.

     Lau sậy trót sa lầy than khóc,
     Khúc buồn lay mái tóc bạc phơ.
          Ấp ôm mãi hạnh phúc hờ,
Nơi kia nào có ai chờ mà mong.

     Câu thơ lạnh buồn hong trên giấy,
     Nốt nhạc mềm lẩy bẩy van xin.
          Gương xưa lạnh lẽo đứng nhìn,
Bóng người năm cũ đã nghìn trùng xa.

     Tiếng giun dế thiết tha hờn giỗi,
     Cơn mưa phùn bối rối tạt ngang.
          Sẩy tay đánh mất Thiên đàng,
Trơ thân đất khách lang thang gánh sầu.

     Đĩa sành sứt, miếng trầu lạc lõng,
     Tách trà vơi đứng hóng duyên thừa.
          Ngập ngừng câu chuyện ngày xưa,
Lối mòn quá khứ dần thưa tiếng cười.

     Phố đổi chủ, đười ươi đứng gác,
     Khách qua đường ngơ ngác nhìn nhau.
          Tiếng chào quên đã từ lâu,
Ngượng ngùng chớp mắt quay đầu bước nhanh.

     Gió biển lạnh tanh tanh mùi máu,
     Sóng đổ bờ láu táu tâng công.
          Thương bầy còng gió biển Đông,
Cong lưng xe cát long đong dựng nhà.

     Men gốc rạ, lê la làn khói,
     Bướm lỡ đường chết đói cành khô.
          Lá rơi khuấy động mặt hồ,
Cây soi mất bóng hồ đồ trách mây.

     Đường cỏ chết, vết giày nhếch nhác,
     Nẻo sao về, bóng vạc dần lu.
          Bao mùa áo đậm hơi thu,
Vẫn hoài nhớ tiếng mẹ ru canh dài.

     Tia nắng lẻ dằng dai đã khuất,
     Giọt sương phai lất phất qua thềm.
          Ngậm ngùi ngắm ngọn đèn đêm,
Thấy đời mình lại ngắn thêm một ngày.
                      
                          Trần Văn Lương
                          Cali, 12/2014

23 August 2025

Sáu thay đổi lớn về nhập cư dưới thời Trump - và tác động của chúng cho đến nay.

TTR: Một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối nội của Tổng thống Donald Trump là giải quyết áp lực di dân tại biên giới phía nam và nạn cư trú bất hợp pháp trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Vấn đề trở nên nghiêm trọng và cần giải quyết cấp bách khi lập luận rằng đó là mấu chốt làm gia tăng tình trạng tội phạm tại nước này. Thế nhưng những biện pháp mà chính quyền Trump đang tiến hành để giải quyết tệ nạn này là gì? Đài BBC tóm gọn vào sáu điểm trong bài viết dưới đây để độc giả dễ theo dõi.

  • Nadine Yousif
  • Role, 
    BBC News

Kể từ khi nhậm chức vào ngày 20 tháng Giêng, Tổng thống Donald Trump đã công bố một loạt các sắc lệnh liên quan đến nhập cư, mở đường cho một nỗ lực rộng rãi nhằm trấn áp người di cư không có giấy tờ tại Hoa Kỳ.

Trong hơn 21 hành động, Trump đã tiến hành cải tổ một số bộ phận của hệ thống nhập cư Hoa Kỳ, bao gồm cả cách thức xử lý và trục xuất người di cư khỏi Hoa Kỳ.

Nhà Trắng đã công bố một số nỗ lực này. Hôm thứ Sáu, Thư ký Báo chí toà Bạch Ốc mới đã chia sẻ hình ảnh các chuyến bay trục xuất được thực hiện bởi máy bay chở hàng quân sự.

Mặc dù Trump đã hứa sẽ "trục xuất hàng loạt" và bắt giữ, nhưng vẫn chưa rõ kế hoạch của ông đã được thực hiện đến đâu.

Sau đây là phân tích một số hành động quan trọng mà Trump đã thực hiện về vấn đề nhập cư trong tuần đầu tiên của mình, và so sánh chúng với các chính sách trước đây.

1. Trục xuất người di cư (lậu)

Nền tảng trong chính sách nhập cư của Trump là trục xuất những người di cư bất hợp pháp khỏi Hoa Kỳ và hứa hẹn "trục xuất hàng loạt".

Vì mục đích đó, Bộ Quốc phòng đã tuyên bố sẽ cung cấp máy bay quân sự để trục xuất hơn 5.000 người đã bị Lực lượng Biên phòng giam giữ tại San Diego và El Paso, Texas.

Thống kê của ICE cho thấy hơn 1.000 người đã bị trục xuất hoặc hồi hương vào thứ Năm, ngày thứ tư của chính quyền Trump.

Ông trùm biên giới Tom Homan đã cam kết rằng các vụ trục xuất sẽ tăng đều đặn trong tương lai.

Cuối tuần qua, các chuyến bay trục xuất của Trump đã gây ra một cuộc tranh cãi ngoại giao ngắn ngủi sau khi chính phủ Colombia cấm hai máy bay quân sự chở người Colombia bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ hạ cánh.

Tổng thống nước này, Gustavo Petro, cho biết "Hoa Kỳ không thể đối xử với người di cư Colombia như tội phạm" và họ cần được "đối xử một cách tôn trọng".

Tuy nhiên, chính phủ của ông dường như đã đồng ý chấp nhận các chuyến bay sau khi chính quyền Trump đe dọa áp đặt thuế quan trừng phạt đối với Colombia.

Trump cũng đã có động thái mở rộng phạm vi trục xuất nhanh chóng những người di cư không có giấy tờ, khôi phục lại chính sách trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông mà Biden đã chấm dứt.

Trump đã tuyên bố sẽ chấm dứt quyền công dân theo nơi sinh. Liệu ông ấy có thể làm được điều đó?

Từ những thành phố phủ đầy tuyết đến biên giới Mexico - lệnh trục xuất của Trump đang hiện hữu.

'Không còn lựa chọn nào khác ngoài việc quay trở lại' - người di cư tuyệt vọng trước những hạn chế biên giới của Trump

Việc trục xuất nhanh chóng trước đây chỉ giới hạn ở các khu vực trong phạm vi 100 dặm (160km) tính từ biên giới quốc tế của Hoa Kỳ và áp dụng cho những người không xin tị nạn hoặc không chứng minh được lý do chính đáng để xin tị nạn.

Với những thay đổi của Trump, việc trục xuất này giờ đây có thể diễn ra ở bất kỳ đâu tại Hoa Kỳ và sẽ áp dụng cho những người di cư không có giấy tờ không thể chứng minh rằng họ đã ở trong nước hơn hai năm.

Trục xuất không chỉ là vấn đề riêng của chính quyền Trump.

Biden cũng đã thực hiện các vụ trục xuất, với 271.000 người nhập cư bị trục xuất đến 192 quốc gia trong năm tài chính 2024.

Theo số liệu của Viện Chính sách Di cư, Biden đã thực hiện tổng cộng 1,5 triệu vụ trục xuất trong bốn năm cầm quyền. Con số này gần bằng với số vụ trục xuất được thực hiện dưới nhiệm kỳ đầu tiên của Trump.

Con số này thấp hơn so với tổng số vụ trục xuất được thực hiện dưới nhiệm kỳ đầu tiên của Barack Obama, với tổng cộng 2,9 triệu.

2. Củng cố biên giới Mỹ-Mexico


Ngũ Giác Đài hôm thứ Tư đã công bố việc triển khai 1.500 quân nhân tại ngũ đến biên giới phía Nam Hoa Kỳ. Các quan chức cho biết đây là đợt bổ sung cho 2.500 quân nhân tại ngũ hiện có tại đây - đánh dấu sự gia tăng 60% quân số Lục quân trong khu vực.


Các binh sĩ sẽ sử dụng trực thăng để hỗ trợ lực lượng Tuần tra Biên giới giám sát, quyền Bộ trưởng Quốc phòng Robert Salesses cho biết. Họ cũng sẽ hỗ trợ xây dựng các rào chắn để ngăn chặn người di cư tràn vào.


Ông Salesses ám chỉ rằng "đây chỉ là khởi đầu" và nhiều quân nhân hơn nữa có thể sẽ sớm được điều động.


Các quan chức cho biết thêm rằng một số "nhiệm vụ thực thi pháp luật biên giới" bổ sung đang được triển khai, nhưng không cung cấp thông tin chi tiết.


Ông Biden cũng đã triển khai quân nhân tại ngũ đến biên giới, được sử dụng để hỗ trợ Tuần tra Biên giới thực hiện các nhiệm vụ hành chính chủ yếu trước khi Đạo luật 42, một sắc lệnh y tế công cộng được sử dụng để trục xuất người di cư nhanh chóng trong thời kỳ Covid-19, hết hạn.


Số lượng người qua lại biên giới đã giảm đáng kể trong năm cuối cùng ông Biden làm tổng thống. Vào tháng 12 năm 2024 - tháng cuối cùng của chính quyền Biden - khoảng 47.330 vụ bắt giữ người di cư đã được ghi nhận, giảm so với mức cao gần 250.000 vụ vào tháng 12 năm 2023.


Con số này thấp hơn mức trung bình hàng tháng trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, trước đại dịch Covid-19. Ví dụ, vào tháng 5 năm 2019, các nhân viên tuần tra biên giới đã ghi nhận 132.800 vụ chạm trán người di cư.


3. Dừng xử lý người di cư và người xin tị nạn. 


Trong một sắc lệnh, Trump đã đình chỉ việc nhập cảnh của tất cả người di cư không có giấy tờ vào Hoa Kỳ, và các nhân viên tuần tra biên giới đã được huy động để từ chối tiếp nhận người di cư, không cho phép họ được xét duyệt tị nạn.


Trước khi có sắc lệnh này, người di cư đã có thể đến biên giới Hoa Kỳ và có quyền xin tị nạn hợp pháp.

Tuy nhiên, vào tháng 6 năm 2024, chính quyền Biden đã ban hành sắc lệnh, tạm thời đình chỉ quyền xin tị nạn đối với những người không đến cửa khẩu chính thức hoặc không có lịch hẹn bằng ứng dụng di động CBP One. Vào tháng 9, các hạn chế về tị nạn đã được thắt chặt hơn nữa.


Trump cũng đã dừng chương trình tái định cư của Hoa Kỳ đối với người tị nạn. Dưới thời Biden, vào năm 2024, Hoa Kỳ tiếp nhận hơn 100.000 người tị nạn - mức cao nhất kể từ năm 1995.


Ông cũng đã chấm dứt một chương trình lớn thời Biden, cho phép tối đa 30.000 người di cư mỗi tháng từ Cuba, Haiti, Nicaragua và Venezuela bay vào Hoa Kỳ vì lý do nhân đạo.


Chính sách "Ở lại Mexico" từ nhiệm kỳ đầu của Trump cũng sẽ được khôi phục. Điều này buộc những người xin tị nạn không phải người Mexico phải chờ đợi ở Mexico cho đến khi đơn xin tị nạn của họ tại Hoa Kỳ được giải quyết. Chính sách này đã ảnh hưởng đến khoảng 71.000 người trong nhiệm kỳ đầu của Trump.


Chính sách gây tranh cãi này thường xuyên bị chỉ trích bởi những người ủng hộ nhập cư, những người cho rằng người di cư thường bị bỏ lại ở Mexico trong nhiều tháng và đôi khi bị các băng đảng tội phạm nhắm đến.


Ước tính có khoảng 3,6 triệu vụ việc tồn đọng tại các tòa án di trú Hoa Kỳ, và người di cư thường phải chờ đợi nhiều năm. Nhiều người băn khoăn liệu những vụ việc đó có còn được xét xử hay không.


Tuy nhiên, Trump đã sa thải một số quan chức cấp cao của tòa án di trú kể từ khi nhậm chức, điều này có thể ảnh hưởng đến việc xử lý các vụ việc đó.


4. Hủy bỏ các cuộc hẹn của người di cư hiện tại. 

Một thay đổi lớn được cảm nhận gần như ngay lập tức sau khi Trump nhậm chức là việc loại bỏ ứng dụng điện thoại thông minh CBP One, ứng dụng mà người di cư có thể sử dụng để đặt lịch hẹn với các nhân viên tuần tra biên giới Hoa Kỳ.

Ứng dụng CBP One được chính quyền Biden ra mắt như một cách để tổ chức và đơn giản hóa việc nhập cảnh của những người di cư đang chạy trốn khỏi sự truy tố.

Khoảng 30.000 người được cho là đã bị mắc kẹt bên trong Mexico kể từ khi ứng dụng bị gỡ bỏ - tất cả đều có các cuộc hẹn đã lên lịch nhưng hiện đã bị hủy.

Theo số liệu của chính phủ mà CBS, đối tác của BBC tại Hoa Kỳ, ước tính có khoảng 270.000 người di cư đang ở phía biên giới Mexico, chờ đợi để được đặt lịch hẹn qua ứng dụng.

Động thái này đã vấp phải sự phản đối của những người di cư đã đi một chặng đường dài đến biên giới và phải chờ đợi hàng tháng trời để có được những cuộc hẹn đó.

Những người ủng hộ cho rằng, với việc loại bỏ ứng dụng, hiện không còn con đường thực tế nào để bảo vệ những người di cư mới đến.

Liên minh Tự do Dân sự Hoa Kỳ kể từ đó đã đệ đơn kiện việc đóng cửa ứng dụng.

5. Mexico xây dựng nhà tạm trú cho người di cư. 

Mexico đang dự đoán dòng người di cư đổ về từ các lệnh trục xuất của Trump, và đã bắt đầu xây dựng các lều trại khổng lồ tại chín thành phố biên giới để tạm trú cho họ.

Quan chức thành phố Enrique Licon của Ciudad Juárez - một thành phố giáp ranh với El Paso, Texas - nói với Reuters rằng những nhà tạm trú này có thể chứa hàng nghìn người và sẽ sẵn sàng trong vài ngày tới, đồng thời gọi nỗ lực này là "chưa từng có tiền lệ".

Các nhà tạm trú sẽ cung cấp thực phẩm, chăm sóc y tế và hỗ trợ làm giấy tờ tùy thân cho người dân. Một đội xe buýt cũng sẽ sẵn sàng hỗ trợ đưa đón người Mexico trở về quê nhà.

Đây là một phần của nỗ lực lớn hơn mang tên "Mexico Embraces You" (Mexico Ôm ​​Bạn), một chiến dịch toàn chính phủ nhằm chào đón những công dân có thể bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ và giúp họ tái hòa nhập tại quê nhà.

Các quốc gia lân cận khác - như Guatemala - cũng đang triển khai những nỗ lực tương tự để tiếp nhận những người bị trục xuất.

Tuy nhiên, một số người đã bày tỏ lo ngại về việc liệu Mexico và các quốc gia khác có sẵn sàng tiếp nhận số lượng người có thể sẽ đến với họ hay không.

Nhiều người di cư cũng đang chạy trốn khỏi tình trạng bất ổn chính trị hoặc bạo lực tội phạm ở quốc gia của họ, làm dấy lên câu hỏi liệu họ có an toàn nếu trở về hay không.

6. Mở rộng quyền hạn của ICE và thực hiện các cuộc đột kích. 

Một số sắc lệnh của Trump đã được ký nhằm mục đích mở rộng khả năng của Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) trong việc bắt giam người di cư bất hợp pháp trên lãnh thổ Hoa Kỳ.

Một trong số đó đảo ngược hướng dẫn lâu đời cấm các cuộc đột kích nhập cư tại các khu vực được coi là "nhạy cảm", chẳng hạn như trường học, bệnh viện và nhà thờ.

Một sắc lệnh khác kêu gọi mở rộng chương trình cho phép ICE chuyển giao nhiệm vụ thực thi di trú cho cảnh sát tiểu bang và địa phương.

Hiện vẫn chưa rõ có bao nhiêu cuộc đột kích đã diễn ra kể từ ngày nhậm chức, nhưng chỉ riêng ngày 26 tháng 1, 956 người đã bị ICE và các cơ quan khác bắt giữ tại các địa điểm bao gồm Chicago, Newark, New Jersey và Miami.

Để so sánh, ICE đã giam giữ hơn 149.700 người trong năm tài chính 2024 dưới thời chính quyền Biden, tương đương trung bình 409 người mỗi ngày./.

Cười tí tỉnh: Vợ trẻ

Một tỷ phú 60 tuổi cưới một cô gái 25 tuổi nóng bỏng... Sau tuần trăng mật, họ tổ chức tiệc mừng đám cưới... Sau vài ly rượu, bạn bè của tỷ ...