27 June 2010

Bệnh Gan và Cây Chó Đẻ

Bệnh Gan

Vai trò của gan trong hoạt động của cơ thể

Gan giữ nhiều chức năng quan trọng trong sinh hoạt của cơ thể.

Trước hết gan giữ vai trò chuyển hóa và tồn trữ các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Quy trình Krebs, một chu trình chuyển hóa cơ bản, cũng xẩy ra chính yếu ở gan. Thông qua đó, các thành phần dinh dưỡng: protid, lipid, glucid trong thức ăn được chuyển hóa để tạo ra năng lượng phục vụ cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Gan tiết men, mật giúp tiêu hóa thức ăn, tích lũy glucôgen, giúp cho việc điều hòa glucose huyết.

Gan đóng vai trò giải độc cho cơ thể, thông qua cơ chế “giáng hóa”, các chất độc được tạo thành các sản phẩm ít độc và được thải ra ngoài theo đường mật và đường thận. Khi gan nhiễm virut viêm gan B (HBV), các tế bào gan sẽ bị tổn thương, làm tăng các chỉ số của enzym transaminase: ALT, AST trong máu, làm cho các hoạt động của gan bị trì trệ, kèm theo các triệu chứng mệt mỏi, kém ăn, buồn nôn. Khi phát bệnh, cơ thể bị sốt, đồng thời với các triệu chứng điển hình: vàng da, vàng mắt, nước tiểu đỏ, đau tức vùng hạ sườn phải... Khi đã có biến chứng chuyển thành xơ gan: bụng trướng to, đau bụng, tiêu chảy, nôn ra máu tươi, kèm theo tụt huyết áp, nặng hơn là hôn mê do suy gan nặng, suy thận cấp, lượng nước tiểu ít dần... Nhiều trường hợp có thể dẫn đến tử vong.
Theo con số thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tính đến 14/5/2007, toàn thế giới có tới 2 tỷ người, chiếm khoảng hơn 30% dân số, đã bị nhiễm virut viêm gan B (HBV) và 400 triệu người đã “mang virut trong người kinh niên”. Theo con số thống kê, châu Á (Đông Nam Á, Ấn Độ...), có tỷ lệ viêm gan B cao nhất, có khoảng 260 triệu người mang virut kinh niên, chiếm 2/3 trong số 400 triệu nói trên. Ở Việt Nam cũng không nằm ngoài vùng dịch tễ lưu hành của HBV. Tính đến tháng 5/2007 khoảng 20% dân số (khoảng 16 triệu người) đang mang mầm bệnh HBV... Trong số đó, có khoảng 20% viêm gan B mạn tính chuyển thành xơ gan. Điều đáng lưu ý là có tới 70-80% bệnh nhân viêm gan không thể hiện triệu chứng gì rõ rệt.
Năm ngoái tôi về VN thăm người chị liệt trên giường bệnh. Sau khi về lại bên này hai tuần thì được tin chị tôi mất. Nhân tiện chuyến đi đó tôi đem chuyện mình bị yếu bộ tiêu hóa và đặc biệt là lá gan cho gia đình còn ở VN nghe...

Chuyện xưa:

Vào năm chót bậc trung hoc, có một bữa cơm trưa tôi ăn mắn thái cùng với những thức ăn khác. Buổi chiều tôi bị quặn đau. Sau này những người chứng kiến cơn đau đó, họ thấy mặt tôi tái xanh. Ngày hôm sau tôi bị cơn đau thứ hai, trong lúc đau quá, tôi đã kéo cong cây sào màn bằng sắt xuống. Tôi bỏ hẳn các thứ mắn, mặc dầu mắm là món ăn giầu chất đạn, nhưng cơ thể mình không chấp nhận thì bổ béo trở thành những cơn đau mà thôi. Y sĩ chẩn đoán cho biết gan tôi bị sưng (lớn gan).

Những năm trên đại học tôi ở cư xá Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đường Yên Đỗ, buổi tối hay rông bộ qua ăn phở gánh ở đường Kỳ Đồng gần nhà thờ Dòng Chúc Cứu Thế. Bát phở đã lềnh mỡ, lại còn xin thêm chút nước béo! Chính những chuyện như vậy làm hại lá gan vốn bẩm sinh đã yếu mà mình không hay. Trong những năm đi xa làm việc, vùng gan mật hay bị nhói đau. Vớ được cuốn sách nói về "tân dưỡng sinh", tôi thử áp dụng nghiêm nhặt chỉ ăn gạo lứt muối mè và một chút rau "dương" luộc. Vùng gan bị lói bớt hẳn. Cứ ăn một tháng như vậy thì sau đó ăn bình thường, có cả thịt cá mỡ màng mà không bị đau được năm, sáu tháng.

Thời gian bị CS tập trung trong các trại lao động ăn uống khem khổ, chứng đau quặn thắt trở lại nhiều lần. Anh bác sĩ Linh đồng tù, cựu giám đốc bệnh viện Vì Dân nói "Tôi thấy đêm qua anh đau lắm. Anh có triệu chứng về mật"... Về sau tôi nghiệm ra mà suy đoán rằng vì gan bị yếu (chứ không phải sưng) nên ăn uống không tiêu. Thức ăn thức uống không tiêu trở thành chất/hơi độc không thải ra được nên tạo ra những cơn quặn thắt mà đau giống như người mẹ lúc sinh con... hoặc nhẹ hơn bị đau lói vì bộ tiêu hóa nhất là gan đã phải cố gắng quá mức.

Chuyện nay:

Vẫn cái tật ương ngạnh, coi thường mọi chuyện nên hơn hai chục năm sống ở Canada tôi rất ít đi thăm bác sĩ, không có y sĩ gia đình, và không hề xin đi khám tổng quát cho đến một hôm, cách đây một năm, việc ăn uống trì trệ rất rõ ràng. Đi ăn tiệc cưới đãi ở nhà hàng mấy chú ba Tàu, người khỏe một giờ sau là tiêu hết, riêng mình bị ọc ạch cả đêm, chưa kể cái rủi ro bị tức ngực (heart burn) khi ngủ tăng lên. Khát, uống hơi nhiều nước cũng bị óc ách! Da rộ lên những vết đen hay rám ngứa.

Đành phải tìm đến bác sĩ và xin đi khám tổng quát. Lab lấy nhiều ống máu, có nơi xoa rọi siêu âm. Kết quả mọi thứ đều tốt trừ ba món này:
- Gan bị nhiễm mỡ nặng. Vì vậy:
-  Mỡ trong máu (high cholesterol)
- Cao huyết áp

Tôi quyết định ăn uống kiêng khem trước khi quá trễ. Gần như bỏ thịt bò. Bỏ hẳn thịt heo ba chỉ. Thịt gà bỏ da nhiều chừng nào hay chừng đó. Ăn mướp đắng, cần tây, cải cay bẹ xanh (ăn sống), và rau thơm  nhiều hơn. Uống nước gạo lứt rang thường xuyên
.................
Nghe kể chuyện xong, gia đình tôi cho tôi biết về một cây thuốc nhiều người nói đến ở VN hiện nay. Cây thuốc này bắt đầu được khai thác quy mô để cung ứng cho thị trường: Cây Chó Đẻ.

***

Cây Chó Đẻ

Hai loại cây chó đẻ

Cây Chó Đẻ còn gọi là cây Diệp Hạ Châu (ngọc dưới lá) vì quả đeo dài dưới tàn lá

Có hai loại cây chó đẻ có hình dạng bên ngoài khá giống nhau. Nếu không quan sát kỹ, dễ lầm lộn do chúng cùng chi Phyllanthus và cùng được sử dụng phổ biến trong dân gian để điều trị bệnh bên ngoài như mụn nhọt, ghẻ, lở ngứa, vết thương… Do đó chúng thường được gọi cùng một tên là CÂY CHÓ ĐẺ. Trong tạp chí “Những Cây Thuốc Quý” số 12 năm 2002 của Hội Dược Liệu Việt Nam thì CÂY CHÓ ĐẺ được xem là cây thuốc quý, dễ tìm để chữa các chứng bệnh về gan. Cây diệp hạ châu đắng (chó đẻ thân xanh) được sử dụng trong nhiều bài thuốc hơn cây hạ diệp châu ngọt (chó đẻ thân đỏ).

Trong thiên nhiên, hai loại cây chó đẻ nói trên thường mọc chung với nhau. Cả hai loại được tìm thấy phổ biến khắp ba miền Bắc Trung Nam của nước ta. Về mùa mưa, diệp hạ châu mọc đầy đồng nơi hoang dã. Mặc dù cả hai loại trên có hình dạng tương đối giống nhau, nhưng cũng có thể phân biệt được dựa vào một số đặc điểm sau:

Cây chó đẻ thân xanh:
Toàn thân có màu xanh tươi, cành ngắn, rất ít phân nhánh, phiến lá có màu xanh nhạt và mỏng hơn cây chó đẻ thân đỏ. Còn khi nhai có vị đắng nên trong đông y được gọi là cây Diệp Hạ Châu Đắng. (Phyllanthus amarus Schum. & amp; Thonn.).

Cây chó đẻ thân đỏ:
Thân có màu đo đỏ và màu thường đậm nơi gốc cành, phân nhánh rất nhiều, phiến lá có màu xanh hơi đậm và dầy hơn cây chó đẻ thân xanh. Còn khi nhai có vị ngọt nên trong đông y được gọi là cây Diệp Hạ Châu Ngọt. (Phyllanthus urinaria L.). Đoạn trích dẫn dưới đây không dành cho tôi mà cho những vị am tường và thích nghiên cứu về sinh hóa.
Tên khoa học

Chó đẻ răng cưa Phyllantus urinaria L., (Tên đồng danh: P. amarus, P. cantoniensis Hornem., P. alatus Blume, họ thầu dầu Euphorbiaceae),

Chó đẻ răng cưa chứa thành phần hóa học gì?
Trong chó đẻ răng cưa có các thành phần flavonoid, alcaloid phyllanthin và các hợp chất hypophyllanthin, niranthin, phylteralin.
Các nhà khoa học đã chứng minh dịch chiết của Phyllantus, có tác dụng ức chế mạnh HBV, thông qua cơ chế ức chế enzym ADNp (ADNpolymerase) của HBV, làm giảm HbsAg và Anti- HBs.
Theo các nghiên cứu hiện đại, cây diệp hạ châu chứa một số enzyme và hoạt chất có tác dụng chữa viêm gan như phyllanthine, hypophyllanthine, alkaloids và flavonoids... Một nghiên cứu cho thấy, 50% yếu tố lây truyền của virus viêm gan B trong máu đã mất đi sau 30 ngày sử dụng loại cây này (với liều 900 mg/ngày). Trong thời gian nghiên cứu, không có bất kỳ sự tương tác nào giữa diệp hạ châu với các thuốc khác.

Theo một nghiên cứu tiến hành năm 1995, cây thuốc này có tác dụng lợi tiểu, giảm huyết áp tâm thu ở người không bị tiểu đường và giảm đáng kể đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường

Tên dân gian:

Tên khoa học là Phyllanthus urinaria L., được biết qua nhiều tên khác do thổ ngữ địa phương như vùng cao nguyên Tây Bắc gọi là trân châu thảo (cỏ hạt châu), vùng hạ ĐBSCL (Cà Mau, Kiên Giang) gọi là me đất đắng, miệt thứ Hậu Giang, Sóc Trăng gọi là chó đẻ răng cưa.

Theo y sư Tuệ Tĩnh trong “Đông dược thần thảo tòng thư” có tên là “chó đẻ” vì ở các vùng nông thôn, chó cái sau khi đẻ con xong thường ra vườn tìm cây diệp hạ châu nhai nuốt liên tục 2, 3 ngày, vừa để cầm máu, vừa để bảo vệ sinh mạng, một bản năng tự vệ do tạo hóa ban cho loài vật. 
 Dược tính và trị bệnh:

Cây chó đẻ vị đắng, hàn tính, bổ âm. Ngoài giá trị chữa sốt rét ác tính còn là loại thảo dược hiệu quả trị các chứng bệnh: viêm gan siêu vi B, giải độc rượu, dạ dày, máu bị nhiễm độc… Cây chó đẻ phơi khô, sao khử thổ còn giúp người bị sạn thận, tiểu rát, tiểu xón, niệu đạo không thông, khỏi bệnh sau 2-4 tuần sử dụng.

Sau đây là một số phương thuốc từ cây chó đẻ kết hợp với một số thảo dược Đông y khác:

- Sốt rét mạn biến chứng suy gan: 50gr cây chó đẻ, 50gr cam thảo đất, sao khử thổ, sắc trong 3 chén nước còn 8 phân, chia làm 2 phần, uống sau bữa ăn trưa và chiều. Liên tục 4-8 tuần sẽ dứt.

- Cao tuổi thận suy, tiểu mỗi đêm 5-7 lần, tiểu gắt, đau niệu đạo: Mỗi ngày 100gr cây chó đẻ tươi (nếu khô và đã sao khử thổ thì dùng 20-50gr), sắc trong 2 lít nước (1 lít nếu cây khô). Uống khi khát. Sau khi xét nghiệm bilirubin và urobilin, kết quả đã giảm.

- Viêm gan siêu vi B cấp: Đối với người bệnh nhẹ dùng 150gr, bệnh nặng 250-300gr cây tươi cộng thêm 12gr nhân trần, 20gr huỳnh bá (mua ở hiệu bào chế Đông y dược), sắc chung trong 2 lít nước còn 800ml. Uống 3 lần/ngày, liên tục 30 ngày vừa giải độc gan (xơ gan), vừa giúp lọc máu, bổ can, tỳ.

- Phụ nữ sau khi sinh con 3 ngày: dùng 20gr cây chó đẻ khô (đã sao khử thổ), 15gr cam thảo đất, 5 lát gừng già (5gr) và 15gr thịt trái gấc, sắc chung trong 2 lít nước còn 800ml. Uống liên tục 10 ngày, da sẽ hồng thắm, tiêu hóa dễ, ăn ngủ ngon.

Cây chó đẻ rất dễ tìm, dễ trồng ở vùng đất hơi ẩm, không sợ mưa, trũng thấp nên mọc tươi tốt quanh năm. Có 2 loại cây: cây chó đẻ răng cưa và cây chó đẻ lá trơn nhẵn, lớn hơn cây chó đẻ thường (Phyllanthus matsamureae). Cả 2 đều là cây thuốc quý. Do vị đắng nên khi cho trẻ uống có thể thêm đường phèn hoặc đường cát để trị các chứng bệnh về gan và sốt xuất huyết, sốt ác tính (tùy theo độ tuổi mà đo lường số lượng - trong khoảng từ 5-10gr).
(Theo Đông y sĩ Kiều Bá Long)

Tại các nước khác.

Từ 2.000 năm nay, y học cổ truyền của nhiều dân tộc đã sử dụng diệp hạ châu chữa vàng da, lậu, tiểu đường, u xơ tuyến tiền liệt, hen, sốt, khối u, đau đớn kéo dài, táo bón, viêm phế quản, ho, viêm âm đạo, khó tiêu, viêm đại tràng... Nó còn được đắp tại chỗ chữa các bệnh ngoài da như lở loét, sưng nề, ngứa ngáy...

Người Peru tin rằng diệp hạ châu có tác dụng kích thích bài tiết nước mật, tăng cường chức năng gan và dùng nó để điều trị sạn mật, sạn thận. Họ xé vụn cây thuốc, đun sôi (như cách sắc thuốc của Việt Nam), cho thêm chút nước chanh, chia uống 4 lần trong ngày. Nó cũng được dùng chữa viêm bàng quang, vàng da phù, rối loạn tiêu hóa, đau bụng kinh. Người Brazil, Haiti cũng dùng cây thuốc này để chữa các bệnh tương tự.

Tại các vùng khác ở Nam Mỹ, diệp hạ châu được sử dụng rộng rãi để trị viêm gan B, viêm túi mật, thận, thống phong, sốt rét, thương hàn, cúm, cảm lạnh, kiết lỵ, đau dạ dày, mụn nhọt, lở loét, ung độc. Nó còn được sử dụng như một thuốc giảm đau, kích thích ngon miệng, kích thích trung tiện, tẩy giun, lợi tiểu, điều hòa kinh nguyệt ở phụ nữ...

Tại nhiều nước châu Á (như Ấn Độ, Malaixia...), người dân cũng dùng diệp hạ châu để chữa viêm gan, vàng da, hen, lao, kiết lỵ, lậu, viêm phế quản, viêm da, viêm đường tiết niệu, giang mai.

Kinh nghiệm cá nhân

Tôi đi khám tổng quát và phát giác ra  gan bị nhiễm mỡ và hiểu rõ hơn tại sao ăn uống nhất là thức ăn mỡ màng lại khó tiêu như thế. Sau khi được giới thiệu và uống nước cây chó đẻ ba tháng gần như liên tục hằng ngày thì kết quả như sau:
- Lần thử nghiệm máu mới đây xác nhận: lượng cholesterol trong máu giảm nhiều.
- Huyết áp giảm đáng kể.
- Nếu sau bữa ăn tối uống nước cỏ chó để đêm không còn bị heart burn (tức ngực)
- Ăn uống dễ tiêu hơn. Uống nước không còn bị óc ách.
- Đặc biệt ở dưới bạ sườn bên phải (vùng gan mật) những lần đau lói thưa dần và mất hẳn nếu kiêng thức ăn nặng nề, dầu mỡ.
Tuy nhiên gan có hơn bốn mươi chức năng khác nhau trong cơ thể. Một chức năng bị trục trặc hay hư hại, tất sẽ gây nên một chứng bệnh về gan. Cây chó đẻ giúp nhiều cho người này nhưng chưa chắc có ích lợi nhiều cho người kia.

Dù sao đi nữa cây cỏ cũng như rau trái dù không hạp với cơ thể một người nhưng cũng không gây phản ứng phụ tai hại như thuốc tây.

Xin chúc quý anh chị đặc biệt những lão huynh tỉ bị đau gan gặp nhiều may mắn.

Điền Thảo
6/2010
___________

Phụ lục:

So What Is Fatty Liver Disease, Anyway?
- And What Was That Bit About Weight Loss? -

Fatty liver disease is a condition where the liver does the exact opposite of it was programmed to do. You see the liver is fat burning machine. 

If you could imagine, just for a moment the liver is a big sponge-like filter, and within that sponge flows blood. The liver, using highly specialized cells, filters the blood from impurities, and removes excess fat from the blood. 

Consequently in a fatty liver, the blood continues to have large amounts of fat, and then distributes the fat to all those unsightly spots on your body; stomach, bum, hips, and heaven forbid man-boobs or cellulite thighs.
A fatty liver contains a disproportionate amount of fat that has replaced normal healthy liver tissue, and can be often seen via an ultrasound scan of the liver, together with elevated liver enzymes.

In my Comprehensive Health Report: “The Fatty Liver Solution”, I go into more detail about this. (See Chapter 1.)
In fact, this report not only describes in detail what fatty liver is... but lays out a comprehensive 2-phase plan—using entirely natural remedies—to get your liver on your side again so you can enjoy the body, energy, and good health you deserve.
____

Định nghĩa Gan Nhiễm Mỡ

Danh từ : gan thấm mỡ, gan thoái hóa mỡ.
Gan nhiễm mỡ là sự tích tụ chất béo chủ yếu là triglycérides trong bào tương của tế bào gan. Gan có thể hơi to hơn bình thường hoặc nặng 5-6 kg tùy mức độ tích tụ mỡ.

Bệnh nhân thường không có triệu chứng gì nên tình huống phát hiện gan nhiễm mỡ thường là ngẫu nhiên khi đi khám sức khỏe tổng quát được chỉ định siêu âm bụng hoặc khi đi khám các bệnh khác. Rất hiếm khi gan nhiễm mỡ được phát hiện vì gan to hoặc đau hạ sườn phải nhất là trong tình trạng gan nhiễm mỡ do rượu hoặc gan nhiễm mỡ do thai kỳ.

Gan đóng một vai trò trung tâm trong sự tích trữ và chuyển hoá của các chất béo. Gan nhiễm mỡ được định nghĩa như là một sự tích luỹ của chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của gan hoặc quan sát dưới kính hiển vi thấy nhiều hơn 5% số tế bào gan chứa các hạt mỡ. Gan nhiễm mỡ được phát hiện trong khoảng một phần ba các trường hợp khám nghiệm tử thi của những người khỏe mạnh tử vong do tai nạn . Trong hầu hết các trường hợp, chất béo ứ đọng chủ yếu là triglycerides, nhưng trong một vài trường hợp thì phospholipids chiếm đa số. Gan bình thường chứa khoảng 5 g lipid cho mỗi 100 g trọng lượng của gan, trong đó khoảng 14% là triglyceride, 64% là phospholipids, 8% cholesterol, và 14% là các acid béo tự do . Trong gan nhiễm mỡ, lượng chất béo chiếm có thể chiếm đến 50% trọng lượng của gan, trong đó hơn một nửa là các triglyceride. Gan nhiễm mỡ có thể là một kết quả của rất nhiều bệnh, bao gồm nghiện rượu, các bệnh về chuyển hóa, các rối loạn về dinh dưỡng, và của việc sử dụng thuốc. Sự tích luỹ chất béo sự phân bố trong các tiểu thuỳ gan, sự phân bố này phụ thuộcvào nguyên nhân và sự kéo dài của tình trạng gan nhiễm mỡ. Chất béo ứ đọng trong tế bào gan có thể ở dạng macrovesicular (những hạt mỡ lớn đẩy lệch nhân) hoặc microvesicular (rất nhiều hạt mỡ nhỏ nằm xung quanh nhân tế bào) tuỳ thuộc vào diễn tiến của bệnh. Các chẩn đoán phân biệt của những bệnh có liên hệ với gan nhiễm mỡ được liệt kê ở Bảng 46.1. Trong việc ghép gan với những lá gan bị thâm nhiễm mỡ từ mức độ trung bình đến nghiêm trọng, được định nghĩa như là có sự hiện diện của chất béo nhiều hơn 30% (đối với mức độ trung bình)và 60% (đối với mức độ nghiêm trọng), thì có mối liên hệ cho thấy tỉ lệ thiếu hụt chức năng tiên phát cao hơn và tỉ lệ sống sót của mô gan ghép thấp hơn so với việc cấy ghép của những lá gan có mức độ nhiễm mỡ thấp
***
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA GAN NHIỄM MỠ
Mãn tính:
Nghiện rượu
Bệnh béo phì (viêm gan nhiễm mỡ)
Bệnh tiểu đường
Tăng lipid máu
Phẩu thuật nối hồi-hổng tràng
Thiếu hụt dinh dưỡng protein-năng lượng
Nuôi ăn qua đường tĩnh mạch
Những rối loạn di truyền về oxi hóa acid béo ở ty lạp thể
Các bệnh gan khác(viêm gan C mãn tính, bệnh Wilson
Bệnh hệ thống (viêm ruột, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải-AIDS)
***

No comments:

Post a Comment