15 May 2010

Tiểu luận

Chữ Việt của đề tài bài viết này có hai nghĩa chánh: nghĩa thứ nhất chỉ bộ tộc Việt, nước Việt Nam, nghĩa thứ hai chỉ tính Việt hay nói rõ hơn là tính cách siêu việt trong tinh thần của Triết Việt, Đạo Việt, sử Việt với danh hiệu Anh Thư. Chữ Việt như vậy mang cả hai nghĩa đó đồng thời, cho nên phụ nữ Việt tất phải có ý nghĩa cao quý, trang trọng, mà người viết theo khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình cố gắng phát họa đôi nét đan thanh. Do tính cách lưỡng nghĩa này, mà đề tài không đóng khung trong phạm vi hạn hẹp phân biệt nam nữ, dân tộc, mà mang tính nhân loại phổ biến, vì nhân bản tâm linh siêu việt ( tính Việt ) là Tính thể của con người mà ai cũng có.

Trong những thời về sau này, người ta thường nói đến vấn đề giải phóng phụ nữ, đề cao vai trò phụ nữ, nhất là ở các nước dân chủ tiên tiến, còn ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề này gắn liền với nhân quyền nói chung, cho nên rất phức tạp mà cũng rất tế nhị.

Tại sao lại hô hào giải phóng phụ nữ ? Khi đặt câu hỏi như vậy tất phải có vấn đề. Để có cái nhìn bao quát, chung ta thử xét từ nguồn gốc.

Vào thời buổi sơ nguyên, con người sinh sống nhờ vào những sản vật sẵn có trong thiên nhiên, đàn ông chuyên đi săn thú, đàn bà lo việc hái lượm. Dần dà theo thời gian nhân số tăng lên, của cải vật chất trong thiên nhiên không đủ cung ứng nữa, cuộc sống gặp khó khăn, cho nên con người tìm cách thay đổi cách sống. Ngành săn thú chuyển thành chăn nuôi, rồi du mục. Ngành hái lượm chuyển sang trồng trọt, rồi trở thành nông nghiệp qui mô hơn với kỹ thuật gieo gặt, cày cấy, tưới tiêu, thuần súc vật cho việc cày bừa. Vào những thời buổi đầu của giai đoạn này, trong khi các bà lo việc trồng trọt, gieo gặt thì rất có thể các ông vẫn còn mãi mê rong ruổi việc săn bắn, cho nên đàn bà ở nhà quán xuyến hầu hết mọi việc, do đó có vai trò, địa vị rất quan trọng trong gia đình, dòng tộc dưới hình thái thị tộc mẫu hệ. Trong thời này, con cái chịu ảnh hưởng ở người mẹ nhiều hơn, nhiều khi không còn biết đến cha.

Nhóm Việt tộc khi xưa có mặt rất sớm ở khu vực rộng lớn Động Đình Hồ, có nền văn hóa đặc thù gọi là văn hóa nông nghiệp, coi trọng người mẹ ( mẫu quyền ), trong khi văn hóa du mục phía Tây Bắc coi trọng người cha hơn ( phụ quyền ). Hai nền văn hóa nguyên thủy này giao lưu, pha trộn, chi phối đời sống các dân tộc Á Đông. Tùy theo liều lượng, mức độ lên xuống của các thành phần mà ai là chủ gia đình, mẹ hay cha? Việt tộc thuộc văn hóa nông nghiệp, chuộng sự hiền hòa, nhu thuận, cho nên đương nhiên là chủ nhân của Việt Nho, hay Nho nguyên thủy, một nền văn hóa thâm thúy, sâu rộng như biển cả đã khắc ghi dấu ấn vào tiềm thức cộng thông của dân tộc qua ca dao:
"Rừng Nhu bể Thánh khôn dò,
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra."
Ngưòi phụ nữ, người mẹ có nếp sống thiên về tình cảm, nội tâm, cho nên ngoài đức tính hiền hòa, nhu thuận còn có khả năng nhạy bén nắm bắt ánh sáng tâm linh, nên xứng đáng được nâng lên hàng nguyên lý mẹ. Mẹ là suối nguồn của Triết lý nhân sinh phổ biến, cho nên người xưa tôn vinh đàn bà là đại biểu cho Minh triết như bên Hy Lạp có Sophia, bên Việt Nam có Âu Cơ.

Tinh hoa Minh triết Việt cô đọng trong những mẫu chuyện huyền thoại của sách Lĩnh Nam Trích Quái mà nổi bật nhất là truyện „ Hồng Bàng Thị “ đã trở thành huyền sử nước Việt Nam. Truyện kể có ngững đoạn đáng ghi nhớ như sau:

" …Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bất đầu có trật tự về quân thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ… … Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai…

Long Quân ở lâu dưới thủy phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân: - Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!

Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã… Long Quân bảo: - Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu…

Đạo Việt, Triết Việt đã nằm ngay trong huyền thoại này. Mẹ Âu Cơ "dung mạo đẹp lạ lùng" đẻ ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con, người nào cũng "trí dũng song toàn", là biểu tượng của Bách Việt, xứng đáng là nguyên lý mẹ của nền Minh triết Việt. Cha Lạc Long Quân siêu việt, phi thường, ngoài những kỳ tích diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, còn lo dạy dân từ cách sinh sống cho tới đạo lý làm người khiến cho trăm họ yên vui, thật xứng đáng trở thành nguyên lý cha của Đạo Việt. Nòi rồng, giống Tiên tuy tương sinh mà cũng tương khắc, nên có sum họp rồi cũng có lúc phân ly. Nhưng ngay liền sau đó lại vang lên tiếng gọi tha thiết từ Tình nghĩa thâm sâu: „ Dù lên núi xuống nước, nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau.“ và để rồi „ gặp nhau ở Tương Dã “. Chữ Tương là nét đặc trưng của Triết Việt, chứng tỏ cặp nguyên lý mẹ, cha là cặp lưỡng hợp, lưỡng nhất chứ không phải nhị nguyên chọn một bỏ một. Về sau Việt Nho tổng quát hóa cặp nguyên lý mẹ- cha thành cặp nguyên lý âm- dương ở kinh Dịch và hiện nay người ta lại thấy cặp nguyên lý mâu thuẫn xuất hiện trong phép biện chứng quân bình (Đường vào Triết học VN, phần II- N.V.N ).

Tại sao sách Dịch nói âm dương, mà không nói dương âm? Hệ từ có câu: „ Thiên tôn, Địa ty, Kiền Khôn định vị “ ý nói khí dương nhẹ có khuynh hướng bay lên cao, còn khí âm nặng chìm xuống thấp. Mọi công trình xây dựng đều phải được bắt đầu từ thấp lên cao, cho nên âm phải được đặt trước dương. Hơn nữa trong lịch trình biến hóa của vũ trụ, ở thời hỗn nguyên ( Chaos ) chưa có ánh sáng, âm cực dương mới sinh, Thiếu dương trong Thái âm mà ra, có lẽ vì thế mà người ta đặt âm trước dương.

Trong truyện "Hồng Bàng Thị" có mấy đoạn như sau: "Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu.“ „ Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không vua." "Đế Lai chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú…ái mộ quá, quên cả ngày về. “

„ Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang “

Tình trạng của giai đoạn huyền sử này phản ảnh những đặc tính thị tộc mẫu quyền buổi sơ nguyên, người mẹ quán xuyến hầu hết mọi việc trong gia đình, chăm lo cho con cái như lời than trách của mẹ Âu Cơ: „ Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!.“ Như vậy người đàn bà, người mẹ Việt từ xưa đã giữ vai trò quan trọng trong xã hội có nền văn hóa nông nghiệp do Viêm Đế Thần Nông khởi xướng ( Mở đầu truyện Hồng Bàng Thị: „ Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi …“ ). Thần Nông là nhân vật huyền thoại của Viêm Việt, là đại biểu cho nền văn hóa nông nghiệp lấy nguyên lý mẹ làm trọng, cho nên có những đặc tính nói chung như sau:

Đề cao mẫu quyền
Thiên về tình cảm
Chuộng văn, hiếu hòa
Chủ trương nhân trị, vương đạo, truyền hiền …
Trong khi văn hóa du mục:

Đề cao phụ quyền
Thiên về lý trí
Chuộng uy vũ, hiếu chiến, thích chinh phục.
Chủ trương pháp trị, bá đạo, thế tập...
Truyện Hồng Bàng Thị cũng có đoạn ghi như sau : « Đế Lai trở về Bắc truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Tuyền và Trác Lộc không hơn nên tử trận. Họ Thần Nông bèn mất. »

Triết gia Kim Định trong tác phẩm "Việt lý tố nguyên" đã làm sáng tỏ giai đoạn huyền sử này nhất là chương 3 : Tìm về nguồn gốc Việt Hoa theo sử truyện có những điểm được ghi nhận như sau :

Con người xuất hiện vào lối 500.000 năm trước, rồi lần lượt bị tiêu diệt qua bốn đợt băng tuyết. Những người còn sống sót sau này, một nhóm di chuyển sang phía Tây là thủy tổ giống da trắng, nhóm khác tiến về phía Đông là thủy tổ giống da vàng. Nhóm này lại chia ra làm hai hệ:

Bắc tam hệ gồm phái Mãn tộc chiếm lĩnh vùng cực Đông Bắc Trung Hoa ngày nay, phái Mông Cổ chiếm lĩnh phía Bắc, phái Đột Quyết ( Turcs ) chiếm lĩnh Tây Bắc.

Nam tam hệ gồm Viêm, Hoa ,Tạng. Viêm tộc cũng gọi là Miêu tộc và Việt tộc. Thoạt kỳ thủy Viêm tộc theo dòng sông Dương Tử vào sinh sống khắp vùng Trung nguyên, lan cả xuống phía Nam, và lên phía Bắc tới vùng Hoàng Hà. Theo Chu Cốc Thành trong quyển « Trung Quốc thông sử » thì Viêm tộc đã có mặt khắp nước Trung Hoa cổ đại trước rồi. Hoa tộc khi đó còn sống đợt săn hái trên vùng Tây bắc, về sau mới theo sông Hoàng Hà tiến vào Bắc Trung Hoa chiếm đất của Viêm tộc ở vùng này, bị Xi Vưu, lãnh tụ của Viêm tộc chống cự. Lãnh tụ Hoa tộc lúc đó là Hiên Viên đánh nhau với Xi Vưu ở Bản Tuyên và Trác Lộc. Khi Xi Vưu thua, tử trận, Hoa tộc chiếm cả vùng Hoàng Hà để lập quốc, Hiên Viên xưng hiệu là Hoàng Đế.

Lý do sự thất bại của Viêm tộc ngay giai đoạn đầu này là vì sống rải rác trên một lãnh thổ quá rộng lớn trong tình trạng thị tộc, tuy có văn hóa khá cao nhưng kém võ nghệ, thiếu óc tổ chức, kết hợp thì làm sao chống cự nổi với đoàn người du mục thiện chiến. Sau khi chiến thắng, Hiên Viên chiếm lãnh thổ của Viêm tộc làm lãnh thổ của mình, nhận tất cả phát minh của Xi Vưu làm của mình, thâu nhận văn hóa của Viêm tộc vào Hoa tộc cho nên trong sách Quản Tử mới có câu : « Tích giả Hoàng Đế đắc Xi Vưu nhi minh ư thiên đạo » ý nói rằng Hoàng Đế nhờ tiếp thu văn minh của Xi Vưu nên mới hiểu rõ thêm được đạo trời.

Hoàng Đế( 2697 tr CN ) có thể được xem là đại biểu của nền văn hóa du mục phát xuất từ hướng Tây Bắc, lần đầu tiên có sự giao lưu, tiếp thâu văn hóa nông nghiệp của con cháu Thần Nông ( 3320-3080 tr. CN ) pha trộn với văn hóa du mục, cho nên chế độ mẫu quyền cũng chuyển dần sang phụ quyền. Có nhiều đợt xâm lăng của Hoa tộc như vậy và Việt tộc cứ lui dần về phương Nam.

Khổng Tử ( 551- 479 tr. CN ) nói : « Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành. » : thuật lại cái đạo của thánh hiền mà tự mình không tạo tác ra cái gì, tin mà thích đạo đời xưa, ta trộm ví như ông Lão Bành ( LN : Thuật nhi VII- Nho giáo T.T.Kim tr.185 ). Lão Bành là quan Đại phu đời nhà Thương cũng hay thuật lại những việc đời xưa. Như vậy Nho không phải do Khổng Tử sáng tạo, mà đã có từ xưa rồi ; cũng không thể từ văn minh du mục Tây Bắc, mà nhất định phải phát xuất từ văn hóa nông nghiệp Đông Nam. Khổng Tử có công san định, khai triển, hệ thống hóa làm cho Nho khởi sắc thêm lên.

Việc đốt sách Nho, chôn học trò của Tần Thủy Hoàng ( 259- 210 tr.CN ) chứng tỏ Nho là tinh hoa văn hóa nông nghiệp của Việt tộc, chủ trương nhu thuận, hiếu hòa, nhân trị, trong khi nhà Tần gốc du mục, hiếu chiến, thích chinh phục, xâm lăng, chủ trương pháp quyền. Nếu Nho là của Hoa tộc thì tại sao lại có vụ « phần thư khanh nho ». Còn việc thống nhất chữ viết, xóa bỏ chữ viết của Việt tộc từ đời Tần Thủy Hoàng đươc các đời sau nối tiếp qua việc cấm người Việt duy trì chữ viết riêng là chủ trương đồng hóa của đế quốc phong kiến phương Bắc.

Đến khi Lưu Bang đánh bại Hạng Võ ( 202 tr.CN ) lập ra nhà Hán, do nhu cầu mới, nên thay đổi quan điểm, thỏa hiệp với Nho, nhưng lại lái sang hướng có lợi cho vương quyền thành ra Hán Nho, có nhiều điểm khác Nho nguyên thủy. Câu nói của Hán Cao Tổ là bằng chứng rõ ràng, rằng Nho nguyên thủy không phải là của riêng của Hoa tộc vốn thuộc văn minh du mục: « Mình có thể ngồi trên lưng ngựa mà lấy được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên mình ngựa mà trị thiên hạ. »

Truyện « Hồng Bàng Thị » có những đoạn nói về địa phương Nam Bắc :
« Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi Nam tuần đến Ngũ Lĩnh... »
« ...phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam... »
« Đế Lai trở về Bắc truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu... »
« Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh ; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái... »

Nam Bắc ở giai đoạn này dùng để qui định phương vị của một vùng quá rộng lớn của Viêm tộc khi xưa, khác hẳn với cặp phạm trù Nam Bắc thời Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống xâm lược. Như vậy lãnh thổ của Việt tộc buổi ban đầu rộng mênh mông đến vùng Thái Sơn, cho nên vẫn còn in sâu trong tiềm thức dân tộc qua ca dao:

« Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. »
Ngoài địa danh Thái Sơn xác định biên giới cực Bắc nguyên thủy của Việt tộc, bài ca dao còn cho biết Đạo Việt là Đạo Hiếu thờ Tổ Tiên, cho nên hàng năm dân tộc Việt đều cử hành trọng thể Quốc Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.

Hùng Vương là con Lạc Long Quân thuộc loài rồng và Âu Cơ thuộc giống Tiên.

Người xưa nói : « Trí giả nhạo thủy. Nhân giả nhạo sơn » nên Lạc Long Quân thích ở Thủy Phủ, còn Âu Cơ thích ở núi, nên đưa năm mươi con lên Phong Châu. Nhưng trong bài ca dao lại ví công cha như núi, còn nghĩa mẹ thì lại như nước, như vậy có lộn xộn không ? Xin thưa, nếu theo quan điểm của triết học duy lý thì quả thật lộn xộn hết cở, nhưng chính cái lộn xộn này mới là tinh hoa của Việt lý, là tiền đề cho cái ý tưởng của kinh Dịch : « trong âm có dương, trong dương có âm », là cốt tủy của triết lý lưỡng hợp, tương đối, khác hẳn với nhị nguyên chọn mặt này bỏ mặt kia dứt khoát. Huyền thoại biểu thị tinh thần một dân tộc vào thời sơ nguyên u linh nên không thể chỉ lấy óc duy lý thời nay mà phê phán một cách máy móc, mà quan trọng là có phản ảnh tính Minh triết hay không. Người mà gốc ở Tiên, Rồng, bọc trăm trứng nở ra thì thật là vô lý, nhưng khi xét đến huyền thoại là phải siêu vượt qua sự kiện để xét cơ cấu uyên nguyên và biểu tượng của nó. Tiên Rồng là biểu tượng cho nguyên lý mẹ, cha, âm, dương ; còn bọc trăm trứng là biểu tượng Bách Việt. Khi huyền thoại nối kết với những mảnh vụn lịch sử thì được gọi là huyền sử.

Vật biểu của Việt Nam từ xưa là cặp Tiên Rồng, còn vật biểu của Tàu lần lượt là Cú, Cá, Cọp rồi mới tới Rồng, mà chỉ có Rồng độc dương thì làm sao có « sinh sinh chi vị Dịch ». Vậy thì ai mới đích thực là chủ nhân của kinh Dịch ? Thật ra văn hóa tự thân bao giờ cũng có tinh thần « vô phương, vô xứ », có tinh thần nhân loại phổ biến, được con người trân trọng, còn văn hóa nô dịch của chủ nghĩa đế quốc độc chiếm bá chủ nhằm nô lệ con người, kỳ thị chủng tộc thì có ai hoan nghênh. Cũng như trong thế giới loài người văn minh ngày nay, việc tự tiện lấy những công trình sáng chế, phát minh của người để sản xuất thủ lợi thì công pháp quốc tế nào lại chấp nhận ? Theo tinh thần Nho nguyên thủy, quân tử là mẫu người lý tưởng, phải luôn lấy công minh, chính trực làm đầu, mà hễ đi ngược lại với tinh thần đó là đã mặc nhiên từ chối chủ quyền đích thực của Nho rồi.

Lời kêu gọi tình thương trong ca dao: « Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn » không chỉ có ý nghĩa giới hạn ở phạm vi nước Việt Nam như hiện nay, mà trong quá khứ địa bàn của Việt tộc còn rộng lớn hơn nhiều, bao gồm cả vùng Thái Sơn phía Bắc. Đó là nói về không gian lãnh thổ, còn nói về thời gian, khi so sánh niên đại huyền sử: Thần Nông 3320-3080, Hồng Bàng 2879, Hoàng Đế 2697 thì thấy họ Hồng Bàng của nước Văn Lang, tức nước Việt Nam xưa còn trước cả Hoàng Đế của Hoa tộc 182 năm. Những người dựa vào quan điểm duy lý, duy kiện, duy sử từ chối huyền sử là cốt để làm lung lạc lòng tự hào « bốn ngàn năm văn hiến », đè bẹp ý thức dân tộc Việt để dễ bề thôn tính, đồng hóa. Ấy vậy mà vua Tự Đức là người có chủ trương này, cho nên ác quả đã đến và nước Việt Nam mất vào tay đế quốc thực dân Pháp ở ngay triều đại này.

Với nguồn gốc của Việt tộc xác định trong không gian, thời gian rộng lớn như vậy, cùng với nguồn gốc hai nền văn hóa, văn minh nông nghiệp, du mục, nguồn gốc Nho, Dịch trong sự giao lưu nhất định nào đó thì không thể nói một cách đơn giản là người Tàu đã đem văn hóa Hoa tộc giáo hóa cho dân Việt, người Việt có nguồn gốc từ Tàu. Sự thật thì văn hóa nông nghiệp đi với Nho, Dịch là của Viêm tộc bao gồm cả Việt tộc từ trước, Tàu tiếp thâu, có công khai triển làm cho hoàn chỉnh, nhưng chủ trương độc quyền chữ viết, xóa bỏ dấu tích để giữ độc quyền chủ nhân văn hóa. Nói rằng người Việt Nam có gốc từ Tàu là kiểu nói hàm hồ dựa trên phạm vi biên cương lãnh thổ ngày nay để nói về nguồn gốc xa xưa , kiểu nói lập lờ, mà thực ra dựa vào dòng máu chủng tộc thì có thể nói rằng đại đa số người Tàu hiện nay đều có gốc Việt, bởi vì tổ tiên của họ đã không di cư kịp về phía Nam trong những lần xâm lăng của Hoa tộc từ Tây Bắc, mà lần đầu là vụ « Hoàng Đế chiến Xi Vưu ». Những người gọi là Việt gốc Hoa thì thật ra phải gọi là người Việt tìm về cội nguồn, về với Tổ theo tiếng chim gọi đàn mới phải.

Do những điều minh xác như trên, những ngộ nhận về nguồn gốc của một số huyền thoại, điển tích, chuyện cổ tích của Việt Nam đã từ lâu có người cho rằng được Việt hóa từ Tàu thì thật ra là của chung của Việt tộc từ xưa rồi, vì thời đó làm gì đã có nước Tàu ? Những nhân vật huyền thoại lớn như Toại Nhân, Hữu Sào, Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông ... cũng rơi vào trường hợp như vậy. Thần Nông dạy dân cày cấy, Phục Hy làm ra tám quẻ Dịch, trong đó có quẻ Li là lửa giúp cho con người bước vào đời sống văn minh hơn. Quẻ Li có một hào âm ở giữa hai hào dương, có ý nghĩa là lửa, cũng là hình ảnh một bà hai ông Táo trong truyện cổ tích Việt Nam. Luận bàn về câu chuyên này, văn học bình dân có phê phán :

« Thế gian một vợ một chồng,
Không như vua bếp hai ông một bà. »
Chuyện cổ tích cũng như huyền thoại là những mẫu chuyện từ xa xưa rất có thể ở vào thời thị tộc mẫu hệ, mẫu quyền, người đàn bà có quyền hơn, cho nên cảnh một bà hai ông rất có thể có do tình nặng hơn lý, nhưng sau đó có sự quân bình, lý tình tương dung do ý nghĩa chữ Tương ( Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã ). Nhưng khi Hoa tộc xâm lăng Viêm tộc thì văn minh du mục thắng thế, cán cân quân bình giữa hai nguyên lý mẹ-cha nghiêng hẳn về phía phụ quyền, sau lại được tăng cường thêm bởi pháp quyền cho nên đàn bà từ đó bước vào khuôn khổ được ca ngợi như là một đức hạnh : đó là tứ đức, tam tòng. Tứ đức thì đã đành:
« Phận gái tứ đức vẹn tuyền,
Công, Dung, Ngôn, Hạnh giữ gìn chẳng sai. »
Còn tam tòng thì sao ?
« Tam tòng tích hãy còn ghi,

Bé nương cha mẹ, già thì theo con. »

Tam tòng là “tại gia tòng phụ, xuất gía tòng phu, phu tử tòng tử.” Ngày xưa, khi người chồng chết, người vợ không được tái giá. Khi Tần Thủy Hoàng chết, hàng ngàn cung phi mỹ nữ phải bị chôn sống theo.

Công chúa Huyền Trân: Theo văn hóa Bà La Môn, khi chồng chết, vợ phải bị hỏa tán theo, cho nên khi Chế Mân băng hà, Công chúa Huyền Trân đáng lẽ cũng bị hỏa táng theo Chiêm vương nếu không được tướng Trần Khắc Chung cứu thoát. Do việc hôn nhân có tính toán và tình xưa nghĩa cũ này mà trong dân gian có ca dao châm biếm:

“ Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục lại vần lửa rơm.”
Thực ra Công chúa Huyền Trân chỉ là nạn nhân của một kịch bản chánh trị, nàng đã chấp nhận hy sinh cuộc đời son trẻ vì ích nước lợi dân để quốc gia có được hai châu Ô, Lý trọng yếu, có tính chiến lược bảo đảm nền an ninh lâu dài cho Đại Việt, vì trong chiến tranh kháng Mông, Toa Đô đã chiếm cứ vùng đất này làm bàn đạp để mở cuộc tấn công từ mặt Nam. Thật là một sự hy sinh cao cả, êm thấm cho hòa bình lâu dài của dân tộc mà ngày nay chưa chắc có ai sánh kịp khi đối chiếu với sự kiện Tây Nguyên, vùng chiến lược yết hầu của Tổ quốc trước hiểm họa ngoại xâm.

So sánh với văn hóa du mục Tây Bắc, văn hóa Bà La Môn thì văn hóa nông nghiệp của Việt tộc nhờ đề cao nguyên lý mẹ, cho nên mặc dầu dưới ảnh hưởng “ Tam tòng ” của Hán Nho mà người phụ nữ Việt vẫn được tôn trọng như ở luật Hồng Đức triều Lê:

“ Về hôn thú, người con gái có quyền công nhận hay phủ nhận việc hôn nhân mỗi khi có người tới hỏi làm vợ. Như vậy cha mẹ chỉ đóng vai cố vấn trước vấn đề gia thất của con cái...

Quyền thừa hưởng gia tài của phụ nữ được ngang với nam giới, ngoại trừ một phần hai mươi là của hương hỏa dành cho người con trưởng để lo việc thờ cúng tổ tiên. Nếu cha mẹ không có con trai nối dõi thì con gái được đặt để vào nhiệm vụ đặc biệt này...

Phụ nữ phạm tội cũng được xử nhẹ hơn... Chiếu các điều kể trên, luật pháp Lê triều tôn trọng quyền lợi phụ nữ và có bề nhân đạo hơn là đối với đàn ông.” (Việt Sử Tân Biên - Phạm Văn Sơn tr. 552-553)

Tính cách luân lý “ tam tòng ” của Hán Nho thật ra không chi phối hoàn toàn đời sống của phụ nữ Việt nhất là ở nông thôn, nơi còn giữ được truyền thống Đạo Việt vốn coi trọng nguyên lý mẹ. Văn chương bình dân phản ảnh điều đó thật rõ ràng. Trong sự giao thiệp trai – gái với nhau, con gái cũng có lúc chủ động:

“ Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu...”
Nếu con trai trêu ghẹo con gái

“ Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng...”
Thì con gái cũng không chịu thua, phản công lại ngay:

“ Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia không vợ đời nào có con?

Người ta con trước, con sau,
Thân anh không vợ như cau không buồng.
Cau không buồng như tuồng cau đực.
Trai không vợ cực lắm anh ơi!
Người ta đi đón, về đôi,
Thân anh đi lẻ, về loi một mình!
Hôn nhân là hệ quả của tình yêu lứa đôi, mà cũng không vượt ra vòng lễ nghĩa, làm đẹp lòng mẹ cha trong truyền thống Đạo Việt:

“ Mình về ta chẳng cho về,
Ta níu lấy áo ta đề câu thơ.
Câu thơ hai chữ rành rành,
Mẹ cha chữ hiếu, chữ tình đôi ta."

Bởi thế người con gái khôn khéo nhắc nhở người con trai:

“Trời cao hơn trán,
Nước sáng hơn đèn,
Kèn kêu hơn quyên,
Biển rộng hơn sông,
Mựa đừng thương trước uổng công.
Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy hay.”
hay:

“ Ngó lên chữ ứ,
Ngó xuống chữ ư,
Anh thương em thủng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội phụ mẫu từ không hay.”
Sau đó người con gái đề nghị cụ thể:

“ Như anh có muốn cùng em,
Anh lo sáu lễ phòng đem đến nhà.”
Người con trai nghe nói, mừng hết cỡ:

“ Tôi về thưa với mẹ cha,
Chạy lo sáu lễ đem qua cưới nàng.”
Cũng có khi tâm ý không hợp, người phụ nữ có quyền quyết định đường ai nấy đi để khỏi bận lòng nhau:
“Ối thôi! Tôi muốn bức rời duyên nợ,
Anh kiếm vợ, em lại lấy chồng.
Làm chi đày đọa khách quần hồng buồn lo?
Mặc dầu dưới ảnh hưởng của Hán Nho sa đọa, tính Việt vẫn còn âm ỉ nơi tiềm thức, như dòng sửa mẹ vô tận nuôi dưỡng mọi con dân Lạc Hồng, đang chờ cơ hội phục sinh.

Ngoại trừ thời đại Lý Trần, Tam Giáo Đồng Nguyên đã đem lại sinh khí cho Đại Việt (1*), còn kể từ sau thời Hồng Đức, văn hóa hoàn toàn rập khuôn theo Hán Nho, Tống Nho độc tôn, chuộng hình thức, thiếu hẳn chiều sâu tâm linh, cho nên sa đọa đến tận cùng đáy vực ở triều vua Tự Đức với chủ trương “ bế quan tỏa cảng ”, phủ nhận huyền sử, là tinh hoa dân tộc. Hậu quả đương nhiên là mất nước về tay thực dân Pháp, và từ đây làn sóng văn minh, văn hóa phương Tây bắt đầu tràn vào Việt Nam.

Tư tưởng trong văn hóa phương Tây bắt nguồn từ Hy Lạp cổ. Cũng như mẹ Âu Cơ là hiện thân của Minh triết Việt thì Sophia là nữ thần Minh triết Hy Lạp, nguyên lý mẹ với tình cảm bao la lan tỏa. Đến Socrate thì Minh triết biến mất, chỉ còn lại tri thức, ông đề cao lý trí đến nỗi đồng hóa tri thức với đức hạnh là một ( Wissen und Tugend sind eins ). Rồi Platon lấy ý niệm làm đối tượng cho mọi tồn tại, Aristote đưa ra luận lý hình thức. Cả ba ông Triết gia này đã thiết lập ra nền triết học duy lý, chi phối vận mệnh triết học phương Tây hơn hai mươi thế kỷ nay. Còn đâu tinh thần của thần Apollon thơ mộng với thần Dionysos say sưa nữa. Tình thâm đã bị lý trí lạnh lùng đàn áp. Trải qua bao nỗ lực để đưa con người trở về với con người mà triết học cũng chưa lấy được quân bình. Triết học hiện sinh đưa đến tình cảnh “buồn nôn”, “phi lý”, “xa lạ” ...của con người. Còn chủ nghĩa duy vật đưa vào chính trường với chủ trương đấu tranh giai cấp thì lại khắc nghiệt nên càng nghẹt thở hơn. Cho mãi đến ngày nay, con người có thật sự tự do, hạnh phúc chưa? Đất nước có thực sự độc lập không? Ngay từ thủ đô Hà Nội, đã có người khởi xướng lời kêu gọi khẩn thiết:

“Ai còn lương tâm và lương tri hãy dũng cảm hành động mạnh mẽ vì đất nước.”
Thật ra có lương tâm, lương tri như tình thế hiện nay cũng rất quý, rất cần thiết; tuy nhiên muốn giải quyết tận gốc rễ phải có triết lý đúng, giải pháp tận căn là phải bắt đầu từ thượng tầng văn hóa. Mặc dầu văn minh phương Tây hấp dẫn với tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng triết học duy lý đã từ lâu bỏ quên nguyên lý mẹ, ôm lấy có nguyên lý cha là lý trí lạnh lùng, cho nên thiếu tình thâm, thiếu chiều sâu tâm linh là cái làm cho con người thành người. Thật vậy, nếu thiếu tình thâm thì làm sao có Minh triết, bởi vì “ tình thâm nhi văn minh ”.

Nếu trở về với quan điểm Việt lý để nhận định thì các học thuyết ngoại lai chỉ chạy loanh quanh ở vòng ngoài của bánh chưng hình vuông có góc cạnh dù sắc bén như khoa học kỹ thuật, mà không đi sâu vào vòng trong hình tròn của bánh dày tâm linh thì làm sao con người có chân hạnh phúc? Chỉ có nguyên lý cha như gà trống nuôi con thì đàn con còn nheo nhóc, còn lắm khổ đau. Phải làm sống lại nguyên lý mẹ mới được, bởi vì:

“Con mất cha ăn cơm với cá,
Con mất mẹ liếm lá đầu đường.”
Đề cao nguyên lý mẹ ở đây không có nghĩa là chống lại, phủ định nguyên lý cha, mà chỉ nhằm lập lại quân bình đã mất , vì cả mẹ lẫn cha đều là đối tượng của chữ Hiếu trong Đạo Việt truyền thống:

“ Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Theo Việt lý thì Tiên Rồng là cặp lưỡng hợp, cho nên với Đạo Việt thì mẹ cha đều được quý trọng:

“ Có cha, có mẹ thì hơn,
Không cha, không mẹ như đàn đứt dây.”
Mẹ Tiên, cha Rồng và các con hẹn hò, khi hữu sự gặp nhau nơi Tương Dã, cho nên với Việt lý thì tình lý tương dung; âm dương tuy tương khắc, mà cũng tương hợp, chứ không tiêu diệt lẫn nhau. Tinh thần hòa thuận trong truyền thống Đạo Việt muôn đời luôn chảy trong huyết quản những con người cùng chung một bọc của mẹ Âu Cơ:

“ Anh em nào phải người xa,
Cùng chung Bác Mẹ một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.

Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ ngoài đá nhau.”
Huyền sử, lịch sử trong dòng sử mệnh của dân tộc vẫn còn đó, những lúc chữ Tương bị quên lãng thì cái họa đã đến như thế nào? Truyện “ Hồng Bàng Thị ” có viết: “ Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân về nên mới đem nhau kêu rằng: “ Bố ở nơi nào, nên mau về cứu nhân dân.”…

Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân: “ Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ! ”

Đó là cái họa của sự vắng bóng nguyên lý cha, nguyên lý của lý trí sáng suốt, tài thao lược kinh bang tế thế, trị quốc an dân, sức mạnh hùng cường, tiêu diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh…cho nên hậu quả là cứ rút lui dần về phương Nam, từ Thái Sơn cho đến Phong Châu. Đành rằng nguyên lý mẹ là cửa ngõ dẫn vào Minh triết tâm linh, nhưng chỉ duy nguyên lý mẹ mà thiếu nguyên lý cha thì từ tình thâm trở thành tình cảm nhẹ dạ, mù quáng chẳng bao xa. Trong truyện Thần Kim Quy, Mỵ Châu với tình cảm thật thà đã bị Trọng Thủy với lý trí xảo quyệt lường gạt mà gây ra cảnh nước mất nhà tan. An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị, nên mới thảm bại nhục nhã, lúc thế cùng lực tận mới lại cầu cứu thần Kim Quy, thần hiện lên nói: “ Giặc ngồi sau lưng nhà ngươi đấy !”. Nếu không ý thức được nguyên lý quân bình của Đạo Việt, mà cứ đu đưa giữa hai cực đoan với những thứ chủ thuyết “duy” ngoại lai thì tại họa còn chực chờ, rình rập. Ngày nay sự đu đưa đã quá sa đà về phía duy lý lạnh lùng, vô cảm, vô tình, cho nên đã đánh mất Minh triết Việt. Trong tình trạng như vậy, cho dù khoa học, kỹ thuật có tiến bộ vượt bực ở vòng ngoài, mà thiếu nền tảng tâm linh ở vòng trong, thì con người vẫn còn lao đao, lận đận. Nguyễn Du đã nhận ra điều đó, nên khuyên:
“ Sao cho trong ấm, thì ngoài mới êm.”
Nếu thiếu nền tảng tâm linh nhân bản thì trí thức thay vì thăng hoa lên trí tuệ siêu việt, lại sa đọa thành mưu trí xảo quyệt, con người đối xử với nhau chẳng khác nào loài lang sói như Thomas Hobbes ( 1588-1679 ) đã nói: “ homo homini lupus ”, bởi vì không có yếu tố tâm linh của tính thể con người. Đến cuối thế kỷ thứ hai mươi, Tố Hữu tôn vinh sự “giết ” như một hành động cách mạng, đạo đức cách mạng, để đạt đến mục tiêu cách mạng:.

“ Giết, giết nữa bàn tay không lúc nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng.
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít- Ta – Lin bất diệt.”
Ngay từ thế kỷ thứ mười lăm, Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1492- 1587 ) đã chỉ rõ cái lý do của cảnh “ quốc phá gia vong ” rồi:
“ Trời sinh vật kể dư vàn,
Khinh, trọng ta dù biết mực, than.
Thịt chó, chó ăn, loài chó dại,
Lông chim, chim tiếc, ấy chim khôn.

Bò đàn những bạn cái bò cái,
Cá cả mong ăn con cá con.
Nhà dột bởi đâu nhà dột nóc,
Nếu nhà dột nóc, thế chon von.” “Nhà dột nóc ” tức văn hóa chủ đạo mà rách nát thì vận nước phải rơi vào “ thế chon von ”.

Giờ đây chủ nghĩa duy vật, văn minh vật chất thống lãnh, toàn trị, cơ khí sinh cơ tâm, cho nên cần phải phục hồi nguyên lý mẹ để lấy lại quân bình. (Còn một kỳ)

Nguyễn Văn Nhiệm

No comments:

Post a Comment